Không phải cứ không biết là sẽ
không có tội. Những hậu quả của nghiệp lực rất rõ
ràng: các hành vi xấu luôn luôn gây khổ và hành vi tốt
luôn luôn mang lại an lạc hạnh phúc. Nếu bạn hành thiện sẽ được an lạc; làm
ác,chính bạn sẽ chịu khổ. Hành nghiệp của chúng ta sẽ đeo đuổi ta từ kiếp này
sang kiếp khác. Điều này giải thích tại sao có người không ngớt làm ác lại vẫn
công thành danh toại trên phương diện thế tục hoặc lắm kẻ khác dốc lòng tu hành
thì lại phải đối đầu với muôn vàn khó khăn khốn khổ. Hành nghiệp đã tạo tác từ
vô số kiếp; vì thế, có vô số tiềm năng trong vô số nghiệp báo.
Tiềm năng của nghiệp thức luôn luôn gia tăng theo thời
gian. Hạt giống nhỏ có tiềm năng đơm kết trái lớn. Điều này
cũng đúng đối với nhân quả nội tại,cho dù hành vi nhỏ cũng có thể mang đến ảnh
hưởng tốt hoặc xấu to lớn. Ví dụ như: một cậu bé có lần đã từng lấy nắm cát cúng
dường lên Phật và quán tưởng như kim sa. Cậu bé đó là vua Asoka[1]. Một hành
động tốt nhỏ nhất cũng có thể mang đến một kết quả là niềm hạnh phúc lớn lao
nhất; đồng thời, một hành động xấu nhỏ nhất cũng có thể mang lại sự đau khổ mãnh
liệt nhất. Nghiệp lực trôi chảy trong nội tâm của ta gia tăng bội phần hơn tiềm
năng của những nguyên nhân vật lý, như hạt giống trái táo chẳng hạn. Những hành
động nhỏ nhất nếu tạo tác liên lỉ có thể khỏa đầy tâm thức chúng sanh như một
giọt nước có thể dần dần châm đầy bình.
Trong xã hội loài người, ta thấy có rất nhiều sai biệt.
Có người luôn thành công trong đời sống, lắm kẻ luôn thất bại. Có người sung
sướng, có người trông có vẻ được yên ổn may mắn và an định tâm hồn. Lắm kẻ dường
như luôn phải đối diện với những bất hạnh lớn lao, khác với dự đoán của chúng
ta. Có người, bạn mong sao họ gặp tai ương thì họ lại bình an vô sự. Tất cả điều
đó, đều nói lên rằng không phải mọi sự việc đều nằm trọn trong tay ta. Khi bắt
đầu một dự án nào đó, đôi khi ta cố gắng hết sức, tích lũy mọi điều kiện cần
thiết để đạt đến thành công, nhưng vẫn bỏ sót một vài việc nào đó. Ta bảo người
này hên. Người kia kém may mắn. Nhưng chỉ thế thôi vẫn chưa đủ; vận may chắc
chắn phải có lý do và nguyên nhân. Theo lối giải thích của Phật giáo, đây là kết
quả của những hành vi tạo tác trong đời quá khứ hoặc đã tạo trước đây ngay trong
đời này. Khi tiềm năng chín mùi, tuy đang đối đầu với nghịch cảnh nhưng bạn vẫn
thành công. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp khác, dù tập hợp được mọi điều
kiện cần thiết nhưng bạn vẫn cứ thất bại.
Tương lai và đời sau sẽ được ích lợi nếu bạn biết tích
tập một cách chân xác các hành vi lương thiện như tránh sát sanh mà lại phóng
sanh; hoặc bồi dưỡng hạnh nhẫn nhục đối với tha nhân. Trong khi ấy, nếu cứ mãi
cuốn hút theo những hành vi bất hảo thì chắc chắn bạn sẽ gặp quả báo trong tương
lai. Nếu không tin theo định luật của nghiệp báo thì bạn có thể hành động tùy
theo sở thích.
Một khi đã tạo nghiệp, nghiệp nhân tương ứng sẽ lưu lại
và gia tăng cho đến khi nghiệp báo hiện tiền. Nếu chưa từng tạo nghiệp thì bạn
sẽ không bao giờ gặt quả báo. Một khi đã tạo nghiệp rồi thì nghiệp quả sẽ ứng
hiện trừ phi bạn thanh tịnh hóa nó xuyên qua các tiến trình tu hành thỏa đáng.
Hoặc đối với một hành vi đạo đức, thì nghiệp quả cũng sẽ ứng hiện và nó chỉ hủy
diệt trừ phi có một sự cuồng nộ hay nguyên nhân đối kháng nào đó. Ảnh hưởng của
nghiệp[2] dù tạo tác từ nhiều đời trước sẽ không bao giờ phôi pha theo thời gian
cả.
Nghiệp tốt hay xấu đều được định đoạt từ chính sự tác ý
của ta mà ra.Nếu tác ý tốt thì mọi hành động đều lương thiện; nếu tác ý sai lầm,
mọi hành động đều trở nên xấu ác. Hành nghiệp có nhiều hình tướng khác nhau; có
nhiều loại nghiệp thuần thiện, có nhiều loại hoàn toàn bất thiện và có loại
nghiệp lẫn lộn cả hai. Dù hành động dường như biểu lộ hình tướng khá dữ dội bạo
động, nhưng nếu tác ý chân chánh thì nó vẫn mang đến an lạc hạnh phúc. Trong khi
ấy, nếu tác ý sai trái và bất chánh thì dù cho hành động dường như hữu ích và
tốt đẹp nhưng thật tế vẫn sẽ mang đến nghiệp báo xấu. Tất cả đều tùy tâm: nếu
tâm bạn đã thuần thục và khéo huân tập rồi thì mọi hành động đều trở nên chánh
đáng tốt đẹp. Trái lại, nếu tâm bạn chưa được thuần thục, lại còn thường xuyên
ảnh hưởng bởi tham dục và sân hận, thì tùy việc làm dường như chánh đáng nhưng
thực tế bạn vẫn sẽ tiếp tích tập nghiệp báo xấu. Nếu càng có nhiều người hơn tin
vào phép tắc nghiệp báo thì ta có thể tuyệt đối không cần đến lực lượng cảnh sát
hay những chế độ hình phạt. Dù trên hình thức ngoại tại, người ta có thể áp dụng
đủ loại kỹ thuật để chấp pháp nhưng nếu thiếu mất niềm tin nội tại đối với các
hành nghiệp thì cũng không thể mang đến một xã hội hòa bình được. Trong xã hội
hiện đại, máy móc tối tân phức tạp được dùng để kiểm soát theo dõi và nhận diện
những kẻ phạm pháp. Nhưng dụng cụ càng tinh vi tối hảo thì tội phạm càng trở nên
giải hoạt ngoan cố hơn. Nếu muốn cải thiện xã hội nhân loại thì tăng cường pháp
luật ngoại tại không thôi vẫn chưa đủ; chúng ta cần có sự tiết chế nội
tâm.
Chúng ta có thể tạo nghiệp qua ba cửa ngõ: thân, ngữ,
và ý. Qua các cửa ngõ này, ta có thể tạo hoặc thập thiện nghiệp
hoặc thập bất thiện nghiệp. Trong các bất thiện nghiệp có ba việc thuôc về thân,
bốn việc thuộc về khẩu và ba việc thuộc về ý. Việc phạm tội thứ nhất do thân gây
ra là sát sanh. Để tạo nên tội sát sanh, đương nhiên phải có sự liên quan đến
một sanh mạng nào khác. Còn tự sát là một trường hợp biệt lệ vì không liên quan
gì đến những kẻ khác. Nếu bạn khởi lên tâm niệm muốn hạ sát một kẻ nào đó, nhưng
bạn lại giết lầm người khác; hành động này hoàn toàn chưa phải là một bất thiện
nghiệp đối với tội sát sanh. Mặt khác nếu trong tâm thức vốn có sẵn động cơ sát
hại muôn loài, và bạn sẵn sàng giết bất cứ ai bạn gặp; trường hợp này đã xác
định rõ rệt, hoàn toàn đây là một bất thiện nghiệp của tội sát sanh.
Sát sanh có thể vì tam độc: tham, sân, si mà
ra. Ví dụ: vì tham ăn thịt mà ta có thể sát sanh, vì sân mà ta
có thể giết địch thủ và vì si mà ta giết thú để cúng tế. Bất kể là bạn đích thân
tạo nghiệp hoặc xúi dục người khác tạo nghiệp đều gây nên nghiệp ác sát sanh như
nhau. Để cho hành vi sát sanh rõ ràng hoàn thành, người bị giết chắc chắn phải
chết trước hung thủ.
Nghiệp ác thứ nhì do thân tạo ra là trộm cướp. Trộm cướp
có thể thúc đẩy vì tham hoặc giả vì sân hận mà muốn hãm hại người nào. Trộm cướp
cũng có thể do si, vì lầm tưởng rằng bạn có thể cướp lấy bất cứ gì mình muốn.
Chủ tâm là muốn khai phân vật sở hữu và chủ sở hữu. Trộm cướp có thể thực hành
bằng bạo lực hoặc do lén lút; hoặc do bạn vay mượn xong, chờ chủ nhân quên rồi
giữ lại luôn cho mình; hoặc mượn tiền không chịu trả. Hành động trộm cướp được
kể như hoàn tất khi bạn có ý nghĩ rằng món đồ vật giờ đây thuộc về mình. Dù
chính bạn không trực tiếp mà để cho kẻ khác làm dùm mình vẫn bị xem như tội trộm
cướp.
Nghiệp cuối cùng trong ba nghiệp ác của thân là tà
dâm. Đó là liên hệ sinh lý với một người không thích hợp, thực
hiện tại một cơ phận không thích hợp; vào một thời giờ không thích hợp; tại một
điểm không thích hợp hoặc vi phạm ý muốn của người khác-đương nhiên là bao gồm
cả việc hãm hiếp. Đối với người đàn ông thì người đàn bà không thích hợp bao gồm
mẹ mình; vợ hoặc người yêu của kẻ khác; cô gái giang hồ do người khác trả tiền
thuê bao, thân quyến của chính mình hoặc những người nữa đã xuất gia như các ni
sư. Cũng bao gồm luôn cả những người đàn ông khác. Những cơ phận không thích hợp
trong thân thể là hậu môn và miệng. Những nơi chốn không thích hợp là chung
quanh tịnh thất của sư phụ mình, gần tháp miếu hoặc ngay trong chùa hoặc ngay
trước mặt cha mẹ mình. Thời gian không thích hợp đối với người đàn ông là khi
người đàn bà đang thời kỳ kinh nguyệt, lúc mang thai và khi người đàn bà đang
vướng phải một chứng bệnh mà sự giao hợp làm cho bệnh trở nên trầm trọng. Nếu
người đàn ông giao hợp sinh lý theo những cách trên thì dù với chính vợ mình vẫn
kể là tà dâm. Thông thường mà nói, sự giao hợp là do từ tham luyến, nhưng người
ta vẫn có thể giao hợp vì sân hận ví dụ như người đàn ông ngủ với vợ của kẻ thù
của hắn. Có lúc cũng do vì vô minh mà nghĩ rằng sự liên hệ sinh lý có thế giúp
con người đạt đại giác ngộ. Nghiệp xấu của hạnh tà dâm chỉ do mình tự tạo và
hành động trở nên cụ thể khi có sự va chạm giữa hai cơ quan sinh dục.
Bốn loại nghiệp xấu kế tiếp là khẩu
nghiệp. Trước tiên là vọng ngữ; bao gồm việc nói những ngôn từ
trái với điều đã thấy, đã nghe và đã biết. Vọng ngữ có thể do bởi tham, sân hoặc
si. Chủ tâm là gây hoang mang cho người khác,có thể diển đạt bằng lời nói, gật
đầu hoặc chỉ cần ra một dấu tay. Bất cứ hành động nào có chủ ý làm người ta
hoang mang đều tạo nên nghiệp xấu vọng ngữ. Và nếu người khác nghe thấy những
vọng ngữ này, điều đó đã làm cho hành động vọng ngữ được thành hình. Tiếp theo,
là nói lời chia rẽ ly gián. Chủ tâm là gây sự bất hòa phân tranh giữa bạn bè
hoặc tăng đoàn vì quyền lợi của chính mình hoặc vì quyền lợi của người khác. Dù
một người nào đó có thành công hay không trong việc tạo ra sự phân tranh bất hòa
thì hành động ly gián của họ hoàn tất ngay trong phút giây mà người khác nghe
được những lời nói chia rẽ này.
Kế tiếp là ác ngữ. Chủ tâm là nói lời thô ác, và nghiệp
ác ngữ sẽ hoàn tất ngay khi người bị nói xấu nghe được những lời mắng nhiếc nhắm
đến họ. Gièm pha nói xấu bao gồm những lời sỉ nhục người khác, chỉ trích lỗi lầm
người ấy dù đúng hay sai. Nếu người nào sử dụng ngôn ngữ ác độc để gây tổn
thương cho người khác, đó gọi là ác ngữ. Kế tiếp là ỷ ngữ (nói chuyện thị phi).
Ỷ ngữ là nói chuyện thị phi bỉ thử do một trong tam độc[3] thúc đẩy. Chủ đích
đơn giản là chỉ muốn hàn huyên vô cớ hặn nhàn đàm tâm sự không mục đích. Ỷ ngữ
không cần có người thứ hai. Bạn chẳng cần có một người tri âm, bạn có thể nói
lời ỷ ngữ (lời thị phi) bằng cách nói chuyện với chính mình. Nhàn đàm vô ích bao
gồm việc bàn luận chiến tranh thời sự, việc lỗi lầm của kẻ khác hoặc biện luận
chỉ biện luận thôi. Cũng bao gồm luôn việc đọc các loại sách không quan trọng gì
cả, các loại sách vô bổ mất thì giờ chỉ vì ái chấp.
Sau cùng là ba nghiệp xấu được tạo ra bởi ý, điều đâu
tiên là tham dục. Đối tượng của tham dục là vật sở hữu của
người khác. Phiền não cổ súy cho lòng tham dục có thể do tam độc tham, sân si
gây nên. Hoàn thành việc làm bất thiện này liên hệ đến năm yếu tố: tham chấp
mãnh liệt tài vật của người khác; ý đồ tích chứa của cải; dã tâm thèm muốn tài
vật người khác; muốn giựt của cải người khác tạo thành của riêng mình; không
trông thấy được sự nguy hại vì thèm khát tài vật của người. Nếu hội đủ năm yếu
tố này khi người ta ao ước thèm khát vật gì đó thì hành vi tâm lý này (tham dục)
đã hoàn thành.
Kế đến là tâm sân hận; tâm sân hận tương tự như ác ngữ,
chủ đích là do ý muốn gây thương tổn cho người; hoặc là nói lời ác ngữ hoặc là
mong cầu người ta gặp hoạn nạn tai ương và bị thất bại, hỏng việc. Một khi bị
cuốn hút theo tâm niệm như vậy thì cũng đã hoàn thành nghiệp sân rồi. Điều này
(nghiệp sân) cũng đòi hỏi cần phải có năm yếu tố:
1/phải có động cơ căn bản là lòng sân hận hoặc lòng phẫn
nộ.
2/thiếu tinh thần nhẫn nhục.
3/không tri nhận được những lỗi lầm của sự giận
dữ.
4/cố tình hãm hại kẻ khác.
5/không tự tri nhận rằng nếu bạn chỉ cần thấu hiểu được
những hậu quả tai hại của tâm sân hận không thôi, thì sự tri nhận này cũng đủ
sức giúp bạn chế ngự được ý muốn hãm hại kẻ khác rồi.
Chỉ cần bạn đơn thuần mong muốn người khác gặp khổ
đau ách nạn, đó chính là tâm sân hận.
Hành vi cuối cùng trong mười hành vi bất thiện là tà kiến
hoặc chấp kiến (tức là bám víu một cách ngoan cố vào những tri kiến sai lầm);
những điều này có nghĩa là bạn phủ nhận bản tánh tồn tại của các pháp hiện
hữu.
Thông thường có bốn loại tà kiến: tà
kiến đối với nhân; tà kiến đối với quả; tà kiến đối với tác dụng của các pháp và
tà kiến đối với sự hiện hữu của một vật thể. Đối với tà kiến về nhân thì tin
rằng không có hành nghiệp; đối với tà kiến về quả thì tin rằng có những hành vi
nào đó không tạo ra nghiệp báo; tà kiến đối với tác dụng của các pháp thì nghĩ
rằng con cái không phải do cha mẹ nuôi nấng, và hạt giống không thể kết trái và
cũng nghĩ rằng không có tiền kiếp hoặc không có đời sống sau khi chết. Tà kiến
thứ tư là tà kiến đối với sự hiện hữu của mọi vật thể do vì vô minh và tham chấp
mà tin tưởng rằng các bậc A La Hán, Niết Bàn và Tam Bảo đều không hiện thực.
Ngài Tsong Kha Pa nói rằng: mặc dù có nhiều loại tà kiến khác nhau nhưng các tà
kiến này thật sự cắt đứt mọi cội rễ tích lũy công đức của con người và chính vì
lý do đó đã khiến cho người ấy bị cuốn hút theo các hành vi bất thiện một cách
không kiềm chế nổi. Vì thể, tà kiến không tin Tam Bảo và tà kiến không tin luật
nhân quả được gọi là tà kiến lớn nhất.
Chúng ta cũng nên biết rằng có sự sai biệt nặng nhẹ trong
các #hành nghiệp. Khi hành vi được thôi thúc bởi những phiền não mãnh liệt thì
hành vi này được gọi là hành vi vô cùng nghiêm trọng. Phương thức hành vi tạo
tác cũng quyết định mức độ khinh trọng của nghiệp. Ví dụ như một cuộc mưu sát
được diễn ra trong tâm thức hân hoan, trước tiên là tra tấn, rồi chế giễu và phỉ
báng người ta thì cuộc mưu sát này được gọi là cuộc mưu sát rất nghiêm trọng vì
con người đã bị giết một cách vô nhân đạo. Nếu kẻ sát nhân không có lương tâm và
không có ý thức hổ thẹn thì hành vi sát sanh ác độc này được kể là rất nghiêm
trọng bởi vì hắn đã đánh mất khả năng hoặc lực lượng đối trị. Nếu sát sanh vì do
ngu si, với mục đích sát sanh để làm tế phẩm chẳng hạn và nghĩ rằng hành động
sát sanh này thật sự là một nghi lễ tôn giáo chứ không phải là một hành vi xấu
ác thì theo kinh dạy, nghiệp tạo ra xem như rất nghiêm trọng.
Thông thường, nếu bạn tái phạm một vài hành vi nào đó
càng nhiều lần thì nó càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nghiệp lực nặng hay nhẹ
cũng còn tùy thuộc kẻ tạo tác. Nếu bạn hồi hướng công đức do sự phúc lợi của
chúng sanh để tầm cầu chứng ngộ, kinh dạy, năng lực sẽ mạnh mẽ hơn. Trong khi
ấy, nếu hồi hướng công đức do mục tiêu thấp kém hơn, kinh dạy, năng lực cũng sẽ
yếu hơn. Điều này cũng còn được áp dụng cho hành vi bất thiện nữa. Phiền não
càng thôi thúc dữ dội chừng nào thì hành nghiệp càng gia tăng mạnh mẽ chừng ấy;
và trong tất cả các phiền não này thì sân hận được kể là loại phiền não mạnh mẽ
nhất. Một niệm sân rất nhỏ đối với một vị Bồ Tát sẽ thiêu hủy mọi công đức tích
tụ từ ngàn kiếp của bạn.
Quả báo của những hành vi bất thiện dựa trên cường độ của
các phiền não đã xúi giục sai sử chúng. Cũng có các quả báo tương ứng với các
loại nghiệp nhân. Ví dụ: vì đã từng sát sanh, con người sẽ bị đọa sanh vào các
cảnh giới thấp kém; sau đó dù màng được thân người nhưng thọ mạng cũng sẽ rất
ngắn. Bởi vì đã từng trộm cướp nên sẽ thiếu thốn vật chất. Bởi vì tà dâm nên sẽ
có người phối ngẫu không trung thành. Bởi vì ác ngữ nên người ta sẽ nhục mạ bạn.
Bởi vì nói lời ly gián nên bằng hữu bất hòa chia rẽ v.v…Một loại quả báo khác là
cách hành xử theo bản năng bẩm sinh. Bởi vì đời trước sát sanh, cho nên dù được
đầu thai làm người nhưng vẫn tự nhiên có tính tình rất xung động và thích giết
chóc. Cũng có loại quả báo tùy theo hoàn cảnh và môi trường; loại quả báo này
chín mùi và tích lũy chung cho cả tập thể cộng đồng. Ví dụ như, do bởi sát sanh
mà một người đã sinh sống ở vùng lúa mạ trái trăng không được xum xuê dồi dào,
làng cùng hẻo lánh, khí hậu không tốt, đầy dẫy cây độc gai góc. Bởi vì trộm cướp
nên gặt quả báo làm người nông phu bị thất mùa. Bởi vì tà kiến mà có quả báo
phải chịu hoàn cảnh thiếu sự cứu hộ và không nơi nương tựa.
Nếu do nhờ giới luật mà con người có thể tự kềm chế và
không đắm chìm vào các hành vi xấu ác; ngược lại còn quyết tâm không để dính líu
vào những sự kiện như thế thì người đó đã tích lũy được nhiều thiện hành. Nếu
không đủ sức hoặc không có khả năng để tạo tác ác nghiệp nhưng vì đạo đức nên tự
chế không làm mới được kể là tích tụ thiện hành.
Tuy hành vi đã tạo tác rồi nhưng không phải do cố ý; ví
như ngộ sát, sát sanh trong giấc mộng, hoặc làm những việc trái với ý nguyện cá
nhân; trong những trường hợp như vậy, hành động tuy đã tạo tác nhưng nghiệp vẫn
không tích lũy. Do vì thiếu yếu tố cần thiết là sự chủ tâm cố ý nên nghiệp báo
của hành động cũng không thành hình. Mặt khác nếu bạn cưỡng bách người nào phải
dính líu đến các hành động bất hảo thay thế cho bạn thì nghiệp xấu tích tụ là do
từ bạn mà ra.
Nghiệp quả có thể ở đời này, đời sau hoặc cách khoảng
nhiều đời mới chín mùi. Một vài hành động quá trọng đại gây ra do sự vô minh và
sân hận kịch liệt nên được xem như rất trầm trọng và đã mang đến quả báo ngay
trong hiện đời. Các hành vi tốt đẹp tích cực cũng thế. Nếu cưu mang bi tâm lai
láng đối với tất cả chúng sanh, nếu vững tâm quy y Tam Bảo và đền đáp ân đức sư
trưởng cùng cha mẹ mình thì hoa trái của các hành động này được kể là quá thù
thắng đến nỗi chúng sẽ khởi sự chín mùi ngay trong hiện kiếp.
Mang được thân người chủ yếu là do trì giới thanh tịnh và
tự chế không tạo mười ác nghiệp. Tuy nhiên để có được thân người với nhiều trợ
duyên ưu đãi giúp vượt tiến trên quá trình tu hành thì vẫn phải cần đến các nhân
tố khác nữa. Điều này bao gồm cả việc sống lâu để hành trì Phật pháp một cách
viên mãn. Cũng đồng thời cần bổ túc thêm; nếu có được thân hình tráng kiện,
trang nghiêm, khỏe mạnh, lại sanh trưởng trong một gia đình tôn quý; đương nhiên
bạn sẽ tạo được niềm quy ngưỡng lớn lao từ tất cả mọi người và gây được sức ảnh
hưởng rất to lớn. Trong kinh điển có đề cập đến nhân tố khác, đó là ngôn từ đáng
tin cậy và thân tâm cường tráng để tránh không bị công kích bởi những sự hỗn
mang khuấy phá. Chỉ cần thoáng trông thấy bạn, thì với nhân dáng thu hút, bạn sẽ
không khó khăn gì trong vấn đề thu nạp đệ tử và tạo cho họ vững tin nơi bạn. Khi
thuộc dòng dõi của một gia đình tôn quý, mọi người sẽ lắng nghe và lưu tâm đến
lời khuyên của bạn hơn. Bằng sự giúp đỡ vật chất cho nhiều người, bạn có khả
năng phối hợp đông đảo quần chúng với sức ảnh hưởng của bạn và với ngôn từ đáng
tin, bạn sẽ làm cho quần chúng tin tưởng vào lời nói như thật của bạn. Những gì
bạn nói đều có thể thành tựu sớm sủa đúng theo ý nguyện chẳng khác nào như chiếu
chỉ của một vị quốc vương. Trước đám đông, bạn không còn sợ sệt hay rụt rè khi
giảng pháp cho họ. Và cũng sẽ có rất ít chướng ngại trong việc tu hành. Nhờ thân
tâm vững mạnh, bạn có thể nhẫn chịu được sự thử thách cam go của thể xác và cũng
không còn hối hận hoặc gặp bất cứ chướng ngại nào trong nỗ lực đạt được bất cứ
ước nguyện gì của mình và của người.
Mỗi một trong những ưu điểm khác nhau này đều do một
#nghiệp #nhân đặc thù của nó. Nhân trường thọ là do hằng thường có thái độ vị
tha giúp ích, không bao giờ gây thương tổn cho kẻ khác. Thân thể cường tráng
khỏe mạnh là do cung cấp quần áo mới cho người và kềm chế không nóng giận. Sanh
trưởng trong gia đình tôn quí là do nhân luôn luôn khiêm cung, tuyệt đối không
cao ngạo và tự xem mình như tôi tớ cho sư trưởng và cha mẹ của mình. Nhân đại
phú là do #bố_thí tài vật cho người nghèo, và nhân có lời ăn tiếng nói uy tín là
do kềm chế #khẩu_nghiệp. Gây được nhiều uy tín ảnh hưởng sâu sa là do nhân cúng
dường Tam Bảo và cha mẹ sư trưởng mình v.v…Có thân tâm vững mạnh là bởi cung cấp
thức ăn vật uống cho người. Bạn sẽ có một thân người đặc biệt hy hữu với nhiều
ưu điểm kể trên nếu bạn tích tập các nghiệp nhân vừa dẫn.
Nếu cứ trì trệ biếng nhác, không chịu suy gẫm kỹ càng về
luật nghiệp báo, có thể ta tự cho rằng mình chẳng làm gì xấu ác và tự cho mình
là một người tu hành đạo hạnh. Tuy nhiên, nếu tự phân tích cặn kẽ những ý nghĩ
và việc làm của mình thì sẽ khám phá rằng hằng ngày ta đang vướng vào những lời
nói vô căn cứ gây tổn thương cho người; hoặc đang vướng vào lỗi tham đắm. Ta sẽ
khám phá rằng mình thật sự thiếu mất yếu tố hành đầu cần thiết của lòng tín tâm
vững vàng kiên định để có thể tuân thủ pháp tắc nghiệp quả một cách chân chính.
Ngay bây giờ ta cần tri nhận được sự khác biệt và khiếm khuyết giữa việc tu hành
theo pháp Phật và phương thức sinh sống thường nhật. Hãy liên kết tầm hiểu biết
về luật nhân quả với việc làm của bạn để kết thúc sự dị biệt này. Nếu tri nhận
được mối nguy hiểm tiềm ẩn trong đường lối tư duy và hành động thì ta sẽ không
ngừng bồi dưỡng quyết tâm nhằm sửa đổi cách cư xử và ý tưởng của ta. Ngài Tsong
Kha pa dạy rằng:vì đã liên kết quá lâu với những phiền não nên dù chúng ta có
tận sức để không vướng mắc vào các hành vi bất thiện, tuy nhiên đôi khi ta tự
phát hiện ra rằng mình không thể nào tự chủ được để tránh tạo tác thêm nhiều
hành vi bất thiện. Ta không nên khinh xuất đối với những chuyện như vậy. Trái
lại hãy dấn bước theo những phương pháp thanh tịnh hóa do chính đức Phật khuyến
dạy. Ta có thể thanh tịnh hóa và khắc phục điều xấu ác đã tạo bằng cách áp dụng
bốn oai lực đối trị.
Đầu tiên là sám hối lực[4]. Bằng cách
tư duy đến tính cách nghiêm trọng về quả báo của các hành động xấu ác, bạn nên
phát khởi nỗi niềm ân hận sâu xa về những hành vi đã tạo ngay tự đáy lòng
mình.
Thứ hai là thanh tịnh lực[5], có thể
đạt được xuyên qua nhiều phương pháp khác nhau bao gồm việc thọ trì đọc tụng
kinh điển, quán tu lý không tánh, trì chú, đắp tạo Phật tượng, cúng dường, xưng
tán danh hiệu chư Phật. Những pháp tu thanh tịnh này cần phải cương quyết thực
thi cho đến khi bạn thấy được dấu hiệu và triệu chứng thành công. Những dấu hiệu
ấy bao gồm mộng thấy ói mửa; mộng thấy uống sữa bò hoặc sữa đặc; mộng thấy mặt
trời và mặt trăng; mộng thấy bay bổng hay lửa cháy hay chế phục các bò rừng hay
người mặc áo choàng đen; mộng thấy các vị tăng ni; mộng thấy trèo núi; và mộng
thấy nghe kinh. Những điều đó đều là triệu chứng thành công trong pháp tu thanh
tịnh.
Thứ ba là năng lực quyết tâm không tạo tác nghiệp
ác[6] trong tương lai. Nếu có năng lực quyết tâm và tự khắc chế
không tạo mười ác nghiệp; không những bạn có khả năng thanh tịnh hóa sự tiêu cực
của mười ác nghiệp không thôi mà bạn còn có khả năng thanh tịnh hóa phiền não và
các dấu ấn do phiền não để lại. Nếu năng lực quyết tâm của bạn rất phiến diện
thì pháp tu thanh tịnh cũng sẽ cạn cợt. Năng lực sau cùng là quán tưởng quy y
Phật, Pháp và Tăng và vì phúc lạc cho mọi loài chúng sanh mà phát nguyện thành
tựu quả vị giác ngộ.
Nếu ác nghiệp đã tạo mà không hề thanh tịnh hóa thì sẽ
tạo nên cơ duyên thác sanh vào cảnh giới thấp kém. Ác nghiệp có thể được hoàn
toàn thanh tịnh hóa trong ý nghĩa là tiềm năng của nó hoàn toàn tận diệt, hoặc
duyên thác sinh vào những cảnh giới thấp hơn cũng đã tận diệt duy chỉ còn một
vài việc rắc rối đau đầu đơn giản trong đời này. Đó là, bất cứ hành vi xấu ác
nào vốn phải thời gian dài mới sanh ra kết quả, nhưng nay trong thời gian ngắn
nghiệp báo đã chiêu cảm rồi. Kết quả còn tùy theo pháp tu thanh tịnh của hành
giả có thiện xảo chăng, tứ oai lực có hoàn bị không và đồng thời sự hạ thủ công
phu của hành giả có dõng mãnh không và pháp tu tịnh trị kéo dài bao lâu rồi.
Trong vài trường hợp, nghiệp chiêu cảm đã bị hủy diệt; trong vài trường hợp khác
vẫn còn thọ nhận một vài chiêu cảm nhẹ hơn.
Bạn chớ nên xem như điều này mâu thuẫn với lời dạy trong
kinh điển rằng nghiệp đã tạo tác không bao giờ xóa nhòa được mức độ chiêu cảm dù
cả trăm kiếp. Điều này có nghĩa là nghiệp đã tạo ra chưa được thanh tịnh hóa thì
không bao giờ có thể phôi pha được tiềm năng chỉ vì thời gian trôi qua. Không có
hành động nào mà không thể thanh tịnh hóa được. Sự thanh tịnh hóa sẽ giúp diệt
trừ tất cả mọi tiềm năng chiêu cảm gây nên từ các nghiệp xấu; cùng thế ấy, mọi
hành động thiện hảo cũng đều bị giảm mất sức chiêu cảm khi khởi lên một niệm
sân. Nhưng Đức Phật đã dạy rằng bạn không bao giờ thanh tịnh hóa được hành
nghiệp một khi nó đã tạo thành kết quả. Ví dụ: những kinh nghiệm tiêu cực xấu
trong hiện đời là quả của hành vi xấu đã tạo từ quá khứ; những nghiệp quả đã
diễn ra rồi, bạn không thể tịnh trừ chúng được. Ngài Tsong Kha pa bảo rằng:
những thiện nghiệp có thể vì các nhân tố đối kháng như sân hận mà mất hẳn năng
lực; cho nên ta không chỉ cẩn trọng để tích tập công đức không thôi; mà còn cần
phải bảo vệ các công đức đã tích tập được một cách hết sức thận trọng nữa. Điều
này thực hiện được bằng cách hồi hướng công đức để thành tựu sự chứng ngộ cho
mục đích thượng cầu Phật quả. Kinh dạy rằng một khi bạn đã hồi hướng công đức để
đạt đến những mục tiêu như vậy thì chỉ khi nào đã đạt thành viên mãn rồi, các
thiện nghiệp bạn tạo mới không bao giờ bị mất hẳn tiềm năng của nó. Chẳng khác
nào như đã ký thác tiền bạc vào ngân hàng thì bạn rất yên tâm đối với giặc
cướp-giặc cướp ở đây là tham, sân si.
Dù ta có thể thanh lọc hoàn toàn mọi xấu ác và hủy diệt
tiềm năng mang lại các hậu quả đáng sợ của nó xuyên qua cách vận dụng các lực
lượng đối trị thích nghi nhưng chỉ cần đơn giản không phạm vào các ác nghiệp từ
lúc đầu thì vẫn tốt hơn rất nhiều. Do vậy, tốt hơn hết là bạn không nên phạm vào
và không bao giờ để cho nội tâm bị vây bẩn bởi những ác nghiệp như vậy. Ngài
Tsong Kha pa nói rằng cũng tương tợ như một người bị gãy chân; sau đó, lành lại
nhưng quả thật chiếc chân bị gãy khác xa so với chiếc chân chưa hề bị gãy bao
giờ.
Có lẽ có người nghĩ rằng vì lý do trong một số kinh điển
khác có đề cập đến sự phú quý và các quyền lợi của kiếp sống hiện nay trong vòng
luân hồi như những đối tượng cần phải xả bỏ và khước từ, nên một hành giả nào đó
còn có ý nguyện đạt được hình thức tồn tại lương hảo là điều không thích hợp.
Đây là thái độ rất sai lầm. Tâm nguyện mà chúng ta vừa nói gồm có hai loại; chí
nguyện tạm thời và chí nguyện cứu cánh. Chí nguyện tạm thời bao gồm sự truy cầu
thân người quí giá trong kiếp tới. Dựa vào thân người quí giá như vậy bạn có thể
liên lỉ tu hành Phật pháp để cuối cùng đạt thành chí nguyện cứu cánh, đó là sự
thành tựu giác ngộ. Tuy rằng đối với một Đại thừa hành giả; mục đích cứu cánh là
muốn nỗ lực đạt được Nhất Thiết Trí nhằm mưu cầu phúc lợi cho quần sanh. Nhưng
cũng đồng thời rất cần thiết cho vị hành giả này nguyện cầu đạt được một sự tái
sanh tốt đẹp trong đời vị lai, như có được một thân người chẳng hạn để vị ấy có
thể tiếp tục tu hành. Ngài Tịch Thiên nói rằng: thân người quí giá cần được nhớ
nghĩ như chiếc thuyền vượt ngang qua biển luân hồi. Để đạt đến mục đích cứu cánh
thành tựu cảnh giới Nhất Thiết Trí, bạn phải có được thân người hiếm quí này
trong rất nhiều kiếp. Đạt được hình thức tái sanh tốt đẹp như vậy, nguyên nhân
cơ bản là do trì giới.
Đối với đa số nhiều người, quả thật khó khăn để bỏ hẳn
thế gian sau khi họ phát nguyện tu hành. Người tu hành tốt nhất là xả bỏ mọi
sinh hoạt thế gian, hy hiến cuộc đời còn lại của mình ở một nơi biệt lập đơn độc
để tu hành. Điều này đáng khen ngợi và có nhiều đại lợi ích nhưng rất khó để tu
như vây đối với đa số nhiều người trong chúng ta. Bạn phải lo nghĩ về chúng cuộc
đời của mình, làm việc trong cộng đồng và phục vụ cho nhân quần nữa. Bạn không
nên hoàn toàn bận lòng với mọi sinh hoạt thế tục mà hãy dùng nhiều năng lực và
thời gian để tu hành ngõ hầu cải thiện đời sau. Bạn sẽ bắt đầu liễu ngộ rằng mọi
hành sự trong hiện đời không đến nỗi quan trọng lắm so với vận mệnh tương
lai.

Bạn có thể sẽ có được một cuộc chuyển sanh tốt đẹp ở đời
vị lai do sự quy y và phụng hành giáo pháp theo luật tắc nghiệp báo; bằng nỗ lực
từ bỏ các hành động xấu ác và tích tập những hành vi lương thiện. Tuy nhiên, vì
vấn đề chuyển sanh thích hợp là một vấn đề còn nằm trong phạm vi luân hồi mà bản
chất của luân hồi là “khổ” nên ta không nên lấy đó làm thỏa mãn. Trái lại, ta
hãy bồi dưỡng sự nhận thức rằng mọi hình thức hiện hữu trong vòng luân hồi đều
mang tính chất “khổ não”. Từ vô thỉ đến nay, ta từng quen thuộc với tâm chấp thủ
đối với sự sung mãn của luân hồi mà chẳng hề liễu tri được rằng sự khoái lạc của
luân hồi là: một sự khổ đau đích thực. Cho đến ngày nào mà các phạm nhân chưa
hiểu rằng mình đang bị giam cầm và cũng chẳng tri nhận được rằng cuộc đời trong
ngục thất rất khó và rất khổ để nhẫn chịu thì họ sẽ vẫn không phát khởi niềm ước
mong chân thật để được thoát khỏi vòng lao ngục ấy. Luân hồi cũng vậy, cho đến
khi nào mà bạn chưa nhận thức được các khiếm khuyết của đời sống trong vòng tuần
hoàn hiện hữu này, thì bạn sẽ chẳng bao giờ chân chánh phát nguyện đạt được Niết
Bàn tức là giải thoát khỏi luân hồi.
Bạn không nên có quan niệm sai lầm rằng Phật giáo là đạo
bi quan yếm thế. Trái lại, Phật giáo rất lạc quan bởi vị mục đích mà mỗi cá nhân
nhắm đến, đó là sự chứng ngộ viên mãn hầu có thể đạt được một niềm an lạc toàn
bích và vĩnh cửu. Phật giáo gợi nhắc chúng ta rằng mỗi người đều có thể đạt
thành mục đích tối thượng này. Những khoái lạc nhất thời của luân hồi dường như
có vẻ vui thú, nhưng chúng không thể thỏa mãn chúng ta được, cho dù ta có được
hưởng thụ lâu đến cách mấy đi nữa. Chúng chẳng bền vững vì chúng dễ biến hóa
thay đổi. Trái lại, với cứu cánh thường hằng và vĩnh cữu của an lạc rốt ráo Niết
Bàn thì những khoái lạc và an vui tạm bợ trong vòng luân hồi này đều trở thành
vô nghĩa.
Ghi chú:
[1] Asoka: A Dục Vương,
[2] Dịch giả chú thích: An action: dịch là nghiệp vì
trong trường hợp này rõ ràng tác giả muốn nói là hành vi có tác ý. Mà hành vi có
tác ý chính là nghiệp.
[3] Tam độc: ba độc tham sân si
[4] Sám hối lực: power of regret
[5] Thanh tịnh lực: power of purification
[6] Năng lực quyết tâm không tạo tác nghiệp ác: power of
resolve not to engage in the non virtuous deed
Trích: HƯỚNG ĐẾN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
Nguyên Tác: THE WAY TO FREEDOM
Tác giả: ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA 14
Dịch giả: NGUYỄN THÚY PHƯỢNG
EmoticonEmoticon