
|
Chương 1 Chương 7 |
Chương 2 Chương 8 |
Chương 3 Chương 9 |
Chương 4 Chương 10 |
Chương 5 Phụ lục |
Chương 6 |
Lời giới
thiệu
Ngay từ nhỏ, chúng ta đã có khái niệm về tiền bạc. Chúng
ta hân hoan chờ đón những đồng tiền mừng tuổi mới keng khi năm hết Tết đến. Lớn
lên, bước vào con đường mưu sinh, chúng ta mong muốn kiếm được nhiều tiền vì
khái niệm tiền bạc nhiều khi gắn liền với sự thành công trong cuộc
sống.
Tuy nhiên, rất ít người trong chúng ta hiểu được cội
nguồn tiền bạc cũng như sự sinh tồn và phát triển của đồng tiền, vì sao những tờ
giấy có in hình những con số lại có giá trị đến thế, nhưng cũng với tờ giấy đó,
chúng ta gần như không mua được món hàng có giá trị trong giai đoạn khủng hoảng
tiền tệ siêu cấp. Phần lớn chúng ta thường nghĩ rằng, sự hiện diện của đồng tiền
trong cuộc sống là một lẽ đương nhiên như không khí hay nước vậy.
Cho đến khi đọc cuốn sách “Chiến tranh tiền tệ”, chúng ta
mới chợt giật mình nhận ra một điều kinh khủng rằng, đằng sau những tờ giấy bạc
chúng ta chi tiêu hàng ngày là cả một thế lực ngầm đáng sợ - một thế lực bí ẩn
với quyền lực siêu nhiên có thể điều khiển cả thế giới rộng lớn này. “Chiến
tranh tiền tệ” đề cập đến một cuộc chiến khốc liệt, không khoan nhượng và dai
dẳng giữa một nhóm nhỏ các ông trùm tài chính - đứng đầu là gia tộc Rothschild -
với các thể chế tài chính kinh tế của nhiều quốc gia. Đó là một cuộc chiến mà
đồng tiền là súng đạn và mức sát thương thật là ghê gớm.
Nhóm tài phiệt ngân hàng này đã tạo ra một cơ chế kiểm
soát nguồn cung ứng tiền tệ xuyên quốc gia, thực hiện các chính sách bơm tiền
vào các nền kinh tế đang tăng trưởng để rồi chích nổ quả bong bóng kinh tế để
thu lợi. Nguồn tài sản họ thu được có thể là dầu khí, bất động sản, nền công
nghiệp quốc phòng, đất nông nghiệp… Tất cả có thể được quy đổi thành vàng hay
tiền mặt tuỳ theo vận trù của họ. Kết quả là sau mỗi lần “xén lông cừu” các nhà
tài phiệt này lại giàu có hơn, uy lực càng ngày càng được củng cố hơn trên thị
trường tài chính quốc tế.
“Chiến tranh tiền tệ” giúp chúng ta hiểu nhiều điều, rằng
Bill Gates chưa phải là người giàu nhất hành tinh, rằng tỉ lệ tử vong của các
tổng thống Mỹ lại cao hơn tỉ lệ tử trận của binh lính Mỹ trong chiến dịch
Normandie, vì sao phố Wall lại mạo hiểm đổ hết vốn liếng của mình cho việc “đầu
tư” vào Hitler.
Việt Nam vừa mới hội nhập vào nền kinh tế thế giới và mặc
dù đồng tiền chưa được chuyển đổi tự do nguồn vốn đầu tư quốc tế còn hạn chế
nhưng tình trạng lạm phát kinh tế hiện tượng bong bóng trên thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản đang xuất hiện và đang tạo ra tình trạng bất ổn
trong đời sống xã hội. Theo ước tính, trong vòng mấy tháng cuối năm 2006 và đầu
năm 2007 đã có tới 10 tỉ đô-la Mỹ được róc vào thị trường chửng khoán, kéo theo
hơn 350 nghìn tỉ đồng của các nhà đầu tư trong nước nhập cuộc. Khi hai thị
trường chứng khoán và bất động sản được bơm vốn quá lớn tạo ra hiện tượng bong
bóng và gây lạm phát cao, Chính phủ buộc phải thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ. Và dây cũng là lúc các tổ chức tài chính nước ngoài thu hồi vốn dầu tư
khiến thị trường chứng khoán mau chóng suy sụp và thị trường bất động sản đi vào
giai đoạn đóng băng nặng nề nhất.
Chỉ tính trong vòng 40 ngày cuối quý 1/2008, thị trường
chứng khoán mất tới 347 điểm, tương đương 100 nghìn tỉ đồng, nghĩa là bình quân
mỗi ngày có 1.000 tỉ đồng bay hơi. Nếu tính theo mốc giá ngày 12-3-2007 thì
nhiều công ty đã rớt giá 70-80%, gây ra khoản thua lỗ hơn 300 nghìn tỉ đồng. quả
thật đây là một thảm hoạ đối với các nhà đầu tư. Hiện tượng này mới xảy ra lần
đầu tại Việt Nam, tuy nhiên, rất ít người biết được rằng, kịch bản này đã được
dàn dựng thành công tại nhiều nước trên thế giới.
Bên cạnh việc phơi bày những âm mưu của các nhà tài phiệt
thế giới trong việc tạo ra những cơn “hạn hán hay bão lũ” về tiền tệ để thu lợi,
cuốn sách cũng đề cập đến sự phát triển của các định chế tài chính thế giới
những cơ cấu được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển vũ bão của nền kinh
tế toàn cầu, hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đại và hoạt động dịch chuyển
dòng vốn xuyên quốc gia là hai bộ phận cấu thành nền kinh tế toàn cầu mà bất cứ
quốc gia nào nếu tách riêng ra cũng khó lòng phát triển. Như vậy vấn đề không
phải là việc cắt dứt mối quan hệ với dòng vốn quốc tế vốn được điều khiển bởi
các tập đoàn tài chính khổng lồ mà là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn ngoại lực
một cách có hiệu quả trong sự phối hợp với các nguồn lực nội tại nhằm tạo ra sự
phồn vinh cho nền kinh tế nước nhà.
Gấp cuốn sách lại, có thể bạn đọc sẽ có nhiều tâm trạng
khác nhau. Đối với một số người đó có thể là sự sợ hãi thế lực tài chính quốc tế
và cảm giác bất an về sự chi phối của thế lực này. Với số khác thì đó có thể là
một cảm giác thú vị khi khám phá ra sự thật trần trụi dể từ đó có cách nhìn nhận
khác nhằm xây dựng cho mình những kế hoạch đầu tư một cách hiệu quả
nhất.
Và cho dù bạn có lo sợ hay cảm thấy tò mò, thú vị thì
“Chiến tranh tiền tệ” cũng là một cuốn sách đáng đọc.
Một cuốn sách bổ ích cho các chuyên gia quản lý tài
chính, các nhà quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhỏ, các giáo viên giảng
dạy về tài chính-ngân hàng cũng như sinh viên các trường kinh tế.
Thạc sĩ Đinh Thế Hiển
Giám đốc Viện nghiên cứu Tin học và kinh tế ứng
dụng
CHƯƠNG I:
GIA TỘC ROTHSCHILD - CƯỜNG QUYỀN
DUY NHẤT Ở CHÂU ÂU
Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một
quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt
ra(1).
Mayer Rothschild
Cho đến nay, Bill Gates vẫn được giới truyền thông không
ngừng ca tụng và được coi là người đàn ông giàu nhất hành tinh với khối tài sản
khổng lồ. Nếu tin rằng đó là sự thật thì có nghĩa là bạn đã bị lừa dối. Bởi vì
bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được bóng dáng của các ông trùm thật sự giàu có
trên bảng xếp hạng những người giàu nhất hành tinh này, còn giới truyền thông
phương Tây thì đã bị những thế lực “vô hình” của các ông trùm kia khoá
miệng.
Cho đến ngày nay, gia tộc Rothschild vẫn theo đuổi ngành
ngân hàng, nhưng nếu bất chợt hỏi 100 người dân Bắc Kinh hay Thượng Hải, bạn sẽ
thấy rằng, có đến 99 người biết rất rõ về Ngân hàng Hoa Kỳ, trong khi chẳng một
ai biết được ngân hàng Rothschild là ngân hàng nào.
Rốt cuộc, vậy ai là Rothschild? Nếu một người làm việc
trong ngành tài chính mà chưa từng nghe đến cái tên Rothschild thì chẳng khác
nào một người lính không biết Napoleon, sinh viên ngành vật lý không biết
Einstein là ai vậy. Cái tên Rothschild hết sức xa lạ đối với đa số người dân
Trung Quốc (cũng như với người Việt Nam). Tuy nhiên, gia tộc này có một sức ảnh
hưởng rất lớn đối với quá khứ, hiện tại và tương lai của người dân Trung Quốc
cũng như người dân khắp nơi trên thế giới. Thông qua sự đối lập giữa tầm ảnh
hưởng và mức độ nổi tiếng của của gia tộc Rothschild đối với thế giới hiện tại,
ta có thể thấy khả năng giấu mình của dòng họ này cao siêu đến mức
nào.
Rốt cuộc thì dòng họ Rothschild có bao nhiêu tài
sản?
Đây vẫn là điều bí mật của thế giới. Theo tính toán sơ bộ
thì con số đó là vào khoảng 500 tỉ đô-la(2). Rốt cuộc thì bằng cách nào mà dòng
họ Rothschild đã kiếm được khoản tài sản khổng lồ như vậy? Đây là câu chuyện mà
chương này sẽ giãi bày cùng bạn.
Sự kiểm soát chặt chẽ trong nội bộ gia tộc, các thao tác
ngấm ngầm trong bóng tối, sự hiệp đồng chính xác như một chiếc đồng hồ, việc thu
thập tin tức luôn đi trước thị trường lý trí lạnh lùng tuyệt đối, tham vọng vô
hạn đối với quyền lực và tiền bạc, sự nhìn nhận thấu đáo đối với tiền tài và sự
giàu có cũng như khả năng dự đoán thiên tài đã giúp cho dòng họ Rothschild xây
dựng được một vương quốc tài chính rộng lớn và hùng mạnh nhất trong lịch sử loài
người, cho dù vương quốc đó đã từng nằm trong vòng xoáy khốc liệt và tàn bạo của
tài chính, chính trị và chiến tranh suốt hơn hai trăm năm qua.
1. Waterloo của Napoleon và Khải
hoàn môn của Rothschild
Nathan là con trai thứ ba và cũng là người gan dạ, thông
minh nhất trong số năm anh em trong gia tộc Rothschild.
Năm 1798, Nathan được cha mình điều chuyển từ Frankfurt
đến Anh để khai phá lĩnh vực ngân hàng của dòng họ Rothschild. Nathan là một
chuyên gia ngân hàng có lòng dạ thâm hiểm và cách hành xử quyết đoán, chưa từng
có ai thực sự hiểu được thế giới nội tâm của ông ta. Do có tài năng thiên bẩm
đáng kinh ngạc về tài chính cùng những thủ đoạn tinh vi, đến năm 1815, ông ta đã
trở thành một trong những ông trùm ngân hàng nổi tiếng tại London.
Amschel - người anh trai của ông ta chuyên lo việc điều
hành đại bản doanh (M.A Rothschild and Sons) của ngân hàng gia tộc Rothschild
tại Frankfurt, trong khi Salomon người anh trai thứ hai - đã xây dựng được một
chi nhánh ngân hàng khác của dòng họ này ở thành Vienna - Áo (S.M Rothschild and
Sons), còn Calmann - người em thứ tư của Nathan - đã xây dựng một chi nhánh khác
ở thành phố Napoli của Ý, và James - người em trai thứ năm - cũng có một ngân
hàng ở Paris. Hệ thống ngân hàng do dòng họ Rothschild xây dựng là tập đoàn ngân
hàng quốc tế đầu tiên trên thế giới. Lúc này, năm anh em nhà Rothschild đang tập
trung chú ý vào tình hình chiến tranh châu Âu năm 1815.
Đây là một cuộc chiến tranh quan trọng liên quan đến số
phận và tiền đồ của đại lục địa châu Âu. Nếu như Napoleon giành được thắng lợi
chung cuộc thì nước Pháp sẽ ở vào vị thế bá chủ đại lục châu Âu. Còn nếu Công
tước Wellington đánh bại được quân Pháp thì nước Anh sẽ ở vào thế cân bằng chiến
lược của một nước lớn chủ đạo của châu lục này.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, với tầm nhìn xa rộng,
dòng họ Rothschild đã xây dựng hệ thống thu thập và truyền tin tình báo chiến
lược cho riêng mình. Họ đã xây dựng một mạng lưới những người đại diện bí mật,
giống như những gián điệp tình báo chiến lược. Những người này được cử đi nằm
vùng ở các thủ đô, các thành phố lớn, các trung tâm giao dịch và trung tâm
thương mại quan trọng ở các quốc gia châu Âu. Tình báo thương mại, chính trị
cũng như tình báo trong các lĩnh vực khác đi về như con thoi giữa các thành phố
lớn như London, Paris, Frankfurt, Vienna và Napoli. Hiệu suất, tốc độ và độ
chính xác của hệ thống tình báo này đều đạt đến trình độ khiến người ta phải
thán phục, vượt rất xa so với tốc độ của bất kỳ mạng lưới tin tức của các cơ
quan nhà nước nào, còn các đối thủ cạnh tranh thương mại khác càng khó mà đuổi
kịp họ. Tất cả những điều này khiến cho ngân hàng Rothschild luôn chiếm được ưu
thế vượt trội trong cạnh tranh quốc tế(3).
“Cỗ xe của ngân hàng Rothschild băng băng trên con đường
quốc lộ của các vùng đất châu Âu, con thuyền ngân hàng Rothschild lao nhanh qua
những eo biển hẹp, những tay gián điệp của ngân hàng Rothschild tràn ngập trên
các đường phố châu Âu. Gia tộc này nắm giữ một lượng lớn hiện kim, công trái,
thư tín và thông tin. Thông tin độc quyền nóng hổi nhất của họ được truyền đi
với tốc độ cực nhanh trên trị trường cổ phiếu và thị trường hàng hoá. Nhưng
những tin tức ấy đều không thể nào so sánh được với kết quả của chiến dịch
Waterloo”(4).
Ngày 18 tháng 6 năm 1815, trận Waterloo được triển khai ở
ngoại ô Brussels - Bỉ. Đó không chỉ là cuộc quyết đấu sinh tử giữa hai đoàn hùng
binh của Napoleon và Wellington mà còn là canh bạc lớn của hàng vạn nhà đầu tư,
kẻ thắng sẽ giàu có vô biên, còn kẻ thua sẽ trắng tay, mất nghiệp. Không khí
trên thị trường giao dịch cổ phiếu London căng thẳng đến cực điểm, tất cả mọi
người đều chờ đợi kết quả cuối cùng của trận Waterloo trong lo âu. Nếu nước Anh
thất bại thì giá trái phiếu của xứ sở sương mù sẽ rớt xuống đáy vực; còn nếu
thắng, trái phiếu của quốc gia này sẽ tăng giá ngút trời xanh.
Khi hai đoàn hùng binh chạm trán nhau trong những trận
chiến sống mái thì các gián điệp của Rothschild cũng khẩn trương cố gắng hết mức
để thu thập các thông tin tình báo chính xác về tình hình chiến sự của hai bên.
Nhiều điệp viên còn phụ trách việc chuyển các thông tin mới nhất liên quan đến
tình hình chiến sự về trạm trung chuyển tin tình báo Rothschild gần chiến trường
nhất. Đến chạng vạng tối, kết cục thất bại của Napoleon đã an bài. Một nhân viên
chuyển thư nhanh của Rothschild tên là Rothworth đã tận mắt chứng kiến tình hình
chiến sự và lập tức lao lên xe ngựa chạy với tốc độ phi mã về hướng Bruxelles,
sau đó chuyển hướng về cảng Oostende. Khi Rothworth nhảy lên chuyến thuyền
Rothschild tốc hành với giấy thông hành đặc biệt thì trời đã rất khuya. Eo biển
Anh (English Channel) lúc này sóng to gió lớn, sau khi trả khoản phí 2.000
francs, Rothworth cũng đã tìm được một thuỷ thủ chịu giúp mình vượt được eo biển
này ngay trong đêm(5). Đến sáng ngày 19 tháng 6, anh ta đã đến được bờ bên kia,
tức là Folkestone của Anh. Đích thân Nathan Rothschild đã đứng đợi anh ta ở đó
Nathan tức tốc xé thư ra xem, lướt nhanh qua dòng tít của bản tin chiến sự rồi
giục ngựa lao thẳng về phía Sở Giao dịch chứng khoán London.
Khi Nathan vừa bước chân vào Sở Giao dịch chứng khoán,
tất cả những người đang chờ đợi tin chiến tranh trong bầu không khí sốt ruột ở
đó lập tức yên lặng. Mọi con mất đều đổ dồn vào gương mặt đầy bí ẩn không lộ
chút cảm xúc của Nathan. Nathan bước chậm rãi về phía ghế chủ toạ vốn được xem
là “trụ cột của Rothschild”. Lúc này, cơ mặt của ông ta gần như chẳng biến đổi
chút nào, trông cứ như là tượng đá vậy. Đại sảnh của Sở Giao dịch khi đó hoàn
toàn im phăng phắc chứ không huyên náo như mọi ngày. Mỗi người đều đem tất cả
mọi sự giàu sang vinh nhục của mình ký thác vào ánh mắt của Nathan. Im lặng
trong giây lát, Nathan liếc mắt ra hiệu cho các nhà đầu tư cổ phiếu của gia tộc
Rothschild đang đứng chờ bên cạnh, mọi người ngay lập tức ùa về phía quầy giao
dịch, bắt đầu bán đổ bán tháo công trái Anh. Đại sảnh thoáng chốc trở thành một
khu hỗn loạn. Một số người bắt đầu to nhỏ với nhau, không ít người đờ đẫn đứng
một chỗ. Khi đó, một lượng trái phiếu của Anh trị giá hàng mấy trăm nghìn đô-la
Mỹ trong phút chốc bị đẩy thốc đẩy tháo ra thị trường. Giá công trái bất đầu
tuột dốc, tạo nên một cơn sóng trượt giá, cơn sau mạnh hơn cơn trước, báo hiệu
một sự sụp đổ hoàn toàn.
Lúc này, Nathan ngồi dựa mình vào ghế với vẻ mặt lạnh
tanh. Cuối cùng, trong đại sảnh Sở Giao dịch có người đã thét lên rằng
“Rothschild đã biết rồi!”, “Rothschild đã biết rồi!“, “Wellington đã thất bại?”.
Tất cả mọi người có mặt ngay lập tức hoảng loạn như bị điện giật. Cuộc bán tháo
trái phiếu cuối cùng đã trở nên hỗn loạn. Trong lúc mất hết lý trí, người này đã
bắt chước người kia tạo nên một kiểu hành vi tự phát. Mỗi người đều muốn bán
tống bán đổ những trái phiếu trong tay vốn đã không còn chút giá trị, cố vớt vát
được gì hay nấy. Sau mấy giờ bán đổ bán tháo như vậy, trái phiếu của Anh đã chất
đầy thành đống như đống rác, giá trị mệnh giá công trái chỉ còn lại 5%(6).
Nathan lúc này vẫn thản nhiên ngồi quan sát tất cả những diễn biến xảy ra. Ông
ta liếc nhẹ ánh mắt về phía các nhà đầu tư cổ phiếu - cái liếc mắt mà nếu không
trải qua huấn luyện lâu dài thì không ai có thể hiểu được. Ngay lập tức, các nhà
đầu tư cổ phiếu ập đến các quầy giao dịch, bắt đầu mua vào bằng hết những công
trái Anh có trên sàn.
11 giờ đêm ngày 21 tháng 6, Henry Percy - người đưa tin
của Công tước Wellington - cũng đã về đến London. Tin cho hay, đại quân của
Napoleon đã thất bại hoàn toàn sau trận đánh suốt 8 giờ, tổn thất một phần ba số
quân, nước Pháp đã tiêu rồi!
Tin tức này đã chậm hơn cả một ngày so với tin tình báo
của Nathan! Và trong một ngày này, Nathan đã kiếm được một lượng tiền gấp 20 lần
so với tổng số của cải mà Napoleon và Wellington có được từ mấy chục năm chiến
tranh(7)! Trận Waterloo đã biến Nathan trở thành chủ nợ lớn nhất của chính phủ
Anh để từ đó chi phối quyền phát hành công trái của nước này. Công trái Anh
chính là chứng từ thu thuế của chính phủ trong tương lai, và nghĩa vụ nộp các
khoản thuế của người dân Anh cho chính phủ đã biến tướng thành việc trưng thu
thuế mà ngân hàng Rothschild đánh vào toàn dân. Các khoản chi tiêu của chính phủ
Anh chủ yếu dựa vào việc phát hành công trái mà có, hay nói cách khác, chính phủ
Anh cần phải đi vay tiền của các ngân hàng tư nhân để chi tiêu vì không có quyền
phát hành tiền tệ trong khi còn phải chi trả lãi suất khoảng 8%, và toàn bộ đều
được kết toán bằng tiền kim loại. Khi đã nắm giữ công trái Anh với số lượng áp
đảo, trên thực tế Nathan là người đang quyết định giá trị của công trái, chi
phối hoàn toàn lượng cung ứng tiền tệ của nước Anh, và như vậy, mạch máu kinh tế
của nước Anh đã bị gia tộc Rothschild siết chặt.
Nathan đã không cần che đậy vẻ kiêu ngạo khi chinh phục
được đế quốc Anh:
Tôi chẳng cần quan tâm con rối Anh nào đang thống trị đế
quốc mặt trời không bao giờ lặn này. Ai khống chế được việc cung ứng tiền tệ của
đế quốc Anh thì người đó khống chế được đế quốc Anh, mà người này chẳng ai khác
ngoài tôi(8).
2. Bước khởi nghiệp của
Rothschild.
Một số người có thể hiểu được hệ thống tiền tệ chi
phiếu và tiền tệ tận dụng. Hoặc là họ cảm thấy vô cùng hứng thú với những khoán
lợi nhuận mà hệ thống này tạo ra, hoặc là hết sức ỷ lại vào sự bố thí của các
chinh trị gia. Mặt khác, đa số người dân không đủ trí lực để có thể hiểu được ưu
thế to lớn được sinh ra tư hệ thống này. Họ thừa nhận sự áp bức mà không hề oán
thán, thậm chí không chút nghi ngờ rằng hệ thống này sẽ làm tổn hại đến lợi ích
của họ(9).
Anh em nhà Rothschild năm 1863.
Rothschild sinh trưởng trong thời đại khi mà cuộc cách
mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ, ngành tài chính phồn vinh chưa từng thấy,
thực tiễn và lý thuyết tài chính mới mẻ từ Hà Lan và Anh lan truyền ra khắp châu
Âu. Cùng với sự ra đời của Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694, một
khái niệm và thực tiễn tiền tệ phức tạp hơn rất nhiều so với quá khứ đã được một
loạt các ông chủ ngân hàng sáng tạo ra.
Trong 100 năm của thế kỷ 17, khái niệm và hình thức tiền
tệ đều có những biến đổi sâu sắc. Từ năm 1694 đến 1776, khi tác phẩm “The Wealth
of Nations” (Của cải của các quốc gia) của Adam Smith ra đời, lần đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, tổng lượng tiền giấy do các ngân hàng phát hành đã nhiều hơn
tổng lượng tiền kim loại đang lưu thông(10). Mâu thuẫn giữa nhu cầu lưu thông
tiền tệ tăng đến mức cực đại trong những ngành công nghiệp mới trỗi dậy như
ngành đường sắt, khoáng sản, đóng tàu, cơ khí, dệt may, công nghiệp quốc phòng,
năng lượng… và khả năng yếu kém trong lưu thông tiền tệ của các ngân hàng cũ đã
ngày càng trở nên gay gắt. Ngân hàng mới nổi của dòng họ Rothschild đã nắm bắt
được cơ hội lịch sử này. Bằng việc áp dụng những phương thức có lợi nhất cho
mình, họ đã làm chủ toàn diện hướng đi lịch sử của lĩnh vực tiền tệ hiện đại, mà
những người khác thì không có chút cảm giác nào đối với việc số phận của họ đang
bị chế độ này quyết định.
Hai lần nội chiến và xáo động trên chính trường từ năm
1625 đã khiến quốc khố của nước Anh trống rỗng. Khi lên ngôi ở nước Anh vào năm
1689, William đệ nhất đã phải đối mặt với một cục diện rối rắm, thêm vào đó là
cuộc chiến tranh mà ông đang tiến hành với vua Louis 14 của Pháp đã khiến cho
William đệ nhất phải chạy vạy khắp nơi để vay tiền đến mức gần như không cần suy
tính thiệt hơn. Lúc này, ngân hàng mà William Paterson làm thống đốc đã đề xuất
với quốc vương của mình một ý tưởng mới xuất hiện từ Hà Lan: thành lập một ngân
hàng trung ương tư nhân - Ngân hàng Anh, để tiến hành luân chuyển tiền tệ cho
những khoản chi khổng lồ của quốc vương.
Ngân hàng tư nhân này đã cung cấp khoản hiện kim trị giá
1,2 triệu bảng Anh cho chính phủ và nó được xem như là “khoản vay vĩnh viễn”
(Perpetual Loan) của chính phủ với mức lãi suất hàng năm là 8%, phí quản lý mỗi
năm là 4.000 bảng Anh. Như vậy, mỗi năm chỉ cần tốn 100 nghìn bảng Anh, chính
phủ đã có thể được hưởng khoản hiện kim 1,2 triệu bảng Anh ngay tức khắc, đồng
thời có thể không cần hoàn trả tiền gốc vĩnh viễn? Đương nhiên, những “lợi ích”
mà chính phủ phải cung cấp cho họ còn nhiều hơn nữa, đó chính là việc cho phép
Ngân hàng Anh độc quyền phát hành chứng chỉ ngân hàng được quốc gia thửa
nhận(11).
Lâu nay ai cũng biết cái lợi nhất của ông trùm ngân hàng
Goldsmith chính là việc phát hành chứng chỉ ngân hàng. Những chứng chỉ này kỳ
thực là sự biên nhận đối với tiền vàng được các khách hàng ký gửi tại ngân hàng
Goldsmith. Bởi vì việc đem tiền mặt theo người là điều rất bất tiện cho nên phần
lớn mọi người đã dùng chứng chỉ ngân hàng để giao dịch, sau đó thanh toán lại
với nhau bằng tiền vàng tương ứng thông qua ngân hàng Goldsmith. Lâu dần, người
ta cảm thấy chẳng cần thiết phải đến ngân hàng rút tiền vàng ra để thanh toán
cho nhau làm gì, vì vậy, những biên nhận này sau đó dần biến thành tiền giấy.
Các nhà hoạch địch chiến lược thông minh của Goldsmith phát hiện thấy rằng, hàng
ngày có rất ít người đến rút tiền, cho nên họ bắt đầu ngấm ngầm dùng một số tiền
nhàn rỗi của khách ký gửi để cho những người cần tiền vay lấy lời, sau khi người
vay trả hết cả vốn lẫn lãi thì những chứng từ vay này cũng được các ngân hàng
của Goldsmith bí mật tiêu huỷ mất như chưa từng có chuyện gì xảy ra, dù trên
thực tế thì lợi nhuận vẫn cứ chảy vào túi họ đều đặn. Phạm vi lưu thông của các
chứng chỉ ngân hàng Goldsmith càng rộng, mức độ chấp nhận càng cao thì lợi nhuận
thu về càng lớn. Mà phạm vi lưu thông cũng như mức độ chấp nhận chứng chỉ ngân
hàng do Ngân hàng Anh phát hành đều cao hơn rất nhiều so với những ngân hàng
khác, những chứng chỉ ngân hàng được quốc gia công nhận này chính là tiền tệ
quốc gia.
Lượng tiền mặt của Ngân hàng Anh được thu hút từ các
nguồn trong xã hội. Những ai đặt mua chứng chỉ từ 2.000 bảng Anh trở lên đều có
thể trở thành uỷ viên Hội đồng quản trị. Tổng cộng đã có 1.330 người trở thành
cổ đông của Ngân hàng Anh, 14 người trở thành thành viên thường trực của Hội
đồng quản trị, bao gồm cả William Patersonl(12).
Năm 1694, William đệ nhất đã ban hành Hiến chương Hoàng
gia (Royal Charter) của Ngân hàng Anh, và như vậy, ngân hàng hiện đại đầu tiên
đã ra đời.
Ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Anh chính là biến khoản nợ
của quốc vương và những khoản nợ riêng của các thành viên trong hoàng gia thành
món nợ vĩnh cửu của quốc gia, lấy thuế của toàn dân làm thế chấp, và tiền tệ
quốc gia được Ngân hàng Anh phát hành dựa trên cơ sở các khoản nợ.
Cứ như vậy, quốc vương có tiền để tham chiến hay hưởng
thụ, còn chính phủ thì có tiền để làm những gì mình thích làm, ngân hàng giải
phóng được những khoản tiền lớn của các khách hàng đang khiến họ ngày đêm lo
lắng và thu được những khoản lợi tức khả quan. Tóm lại là tất cả đều vui vẻ, chỉ
có điều, những khoản thuế của người dân đã trở thành vật thế chấp. Do có được
một công cụ tài chính mới và lớn mạnh như vậy nên số tiền bội chi của chính phủ
Anh tăng lên chóng mặt. Từ năm 1670 đến năm 1685, thu nhập của chính phủ Anh là
24,80 triệu bảng Anh, từ năm 1685 đến 1700, thu nhập của chính phủ đã tăng lên
hơn gấp đôi, đạt đến con số 55,7 triệu bảng Anh, nhưng việc vay tiền của ngân
hàng Anh từ ngân hàng chính phủ trong khoảng thời gian 1685-1700 đội lên hơn 17
lần, từ 800 nghìn bảng Anh lên đến 13,80 triệu bảng Anh(13).
Điều lạ lùng là, thiết kế này đã cắt đứt mối quan hệ giữa
việc phát hành tiền tệ quốc gia với khoản nợ vĩnh cửu của quốc gia. Cho nên, nếu
phát hành thêm lượng tiền tệ mới thì điều tất yếu là phải tăng thêm quốc nợ, còn
muốn thanh toán hết quốc nợ thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc huỷ hoại cả
đồng tiền quốc gia. Như vậy, trên thị trường sẽ không còn tiền tệ để lưu thông,
cho nên chính phủ cũng mãi mãi không thể nào hoàn trả hết khoản nợ này. Do phải
hoàn trả lợi tức và đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế, cho nên điều tất yếu
là chính phủ cần phải có nhiều tiền hơn đổ vào lưu thông, và những khoản tiền
này lại cần phải vay từ ngân hàng mà ra, cho nên quốc nợ cũng không ngừng tăng
lên, và toàn bộ lợi tức của những khoản nợ này đều chảy vào túi ngân hàng, còn
gánh nặng lãi suất thì được đổ dồn vào nghĩa vụ đóng thuế của người
dân!
Quả thật là từ đó về sau, chính phủ Anh cũng chẳng thể
nào hoàn trả hết các khoản nợ đã vay. Đến cuối năm 2005, khoản nợ của chính phủ
Anh từ 1,2 triệu bảng năm 1694 đã tăng lên thành 525,9 tỉ bảng, chiếm đến 42,8%
GDP của nước Anh(14).
3. Thùng vàng thứ nhất của
Rothschild
Ngày 23 tháng 2 năm 1744, Mayer A. Bauer cất tiếng khóc
chào đời trong một khu tập trung Do Thái ở Frankfurt.
Móse - cha của Mayer - là một thợ bạc chuyên cho vay lãi
lưu động, sinh sống và làm việc ở vùng Đông Âu. Sau khi Mayer ra đời, Móse quyết
định định cư tại Frankfurt. Ngay từ nhỏ, Mayer đã thể hiện tài trí bẩm sinh đáng
kinh ngạc về kinh doanh. Cha của Mayer đã dồn rất nhiều tâm huyết để đầu tư cho
con trai, dốc lòng giảng giải cho Mayer một cách hệ thống những kiến thức kinh
doanh liên quan đến tiền tệ và cho vay. Mấy năm sau, Móse qua đời, lúc này Mayer
mới 13 tuổi nhưng được sự khích lệ của những người thân thích trong gia đình nên
đã quyết định theo nghề tài chính và làm việc trong ngân hàng của dòng họ Heimer
gốc Âu ở Hannover(15).
Với sự mẫn cảm và tính cần cù phấn đấu hơn người, Mayer
đã nhanh chóng nắm bắt được các kỹ năng chuyên môn trong ngành ngân hàng. Trong
suốt 7 năm ròng rã, Mayer giống như một miếng bọt biển đã hấp thu và tiêu hoá
những kỳ mưu diệu kế trong ngành tài chính được truyền từ Anh sang. Nhờ vào khả
năng làm việc xuất sắc của mình, anh được đề bạt trở thành cổ đông sơ cấp. Trong
những ngày tháng làm việc ở ngân hàng, anh đã làm quen được một số khách hàng
rất có ảnh hưởng, bao gồm cả tướng Stauffer- người có vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển sau này của anh. Chính ở đây Mayer đã ý thức được lợi nhuận
và hệ số an toàn khi cho chính phủ và quốc vương vay tiền với mức cao hơn rất
nhiều so với việc cho vay cá nhân, bởi vì đây không chỉ là khách hàng lớn mà còn
được đảm bảo bởi khoản thuế của chính phủ. Những khái niệm tài chính hoàn toàn
mới mẻ đến từ nước Anh này đã khiến cho đầu óc của Mayer bừng sáng hẳn
lên.
Mấy năm sau, khi đã trở thành một chàng thanh niên khỏe
mạnh, Mayer trở về Frankfurt tiếp tục công việc làm ăn là cho vay lãi của cha
mình. Anh còn đổi họ của mình thành Rothschild (Roth trong tiếng Đức có nghĩa là
màu đỏ, Schild có nghĩa là dấu mốc). Khi biết được tướng Stauffer cũng đã trở về
Frankfurt và đang làm việc trong cung vua William, Mayer nghĩ ngay đến việc phải
lợi dụng tốt mối quan hệ này. Tướng Stauffer cũng tỏ ra rất vui khi gặp lại
Mayer. Bản thân tướng Stauffer là một nhà sưu tập tiền có tiếng, còn việc nghiên
cứu lĩnh vực tiền tệ của Mayer cũng đã có mấy đời gia truyền, cho nên khi đàm
đạo đến các loại tiền cổ thì chàng trai trẻ này tỏ ra vô cùng thành thạo khiến
cho vị tướng rất hài lòng. Một việc khiến cho tướng Stauffer càng vui hơn - đó
là Mayer đã tự nguyện bán cho vị tướng này mấy đồng tiền hiếm với giá chiết khấu
rất cao, vì thế mà ông đã xem Meyer như người tri kỷ. Sự khéo léo này đã giúp
cho Mayer nhanh chóng thân quen với rất nhiều nhân vật có máu mặt trong hoàng
cung. Một hôm, thông qua sự giới thiệu của tướng Stauffer, Mayer được vua
William tiếp kiến, và anh chàng nhận ra rằng, vị vua này cũng là một nhà sưu tầm
tiền cổ, vậy là Mayer lại dùng cách tương tự để lấy lòng William.
Sau nhiều lần được Mayer bán cho những đồng tiền quý với
giá rẻ, vua William tỏ ra áy náy trong lòng, bèn hỏi xem Mayer có muốn giúp gì
không. Chớp lấy thời cơ này, Mayer đề xuất muốn trở thành người đại diện chính
thức của hoàng cung, và ngay tức khắc, anh đã được William đồng ý Ngày 21 tháng
9 năm 1769, Mayer đã gần huy hiệu hoàng gia lên tấm bảng hiệu của mình, bên cạnh
viết một dòng chữ vàng: “M.A. Rothschild, người đại diện do vua William chỉ
định”(16). Một thời gian sau, uy tín của Mayer nổi như cồn, công việc làm ăn
cũng theo đó mà ngày càng phát đạt.
Trong lịch sử, bản thân thái tử William được mệnh danh là
người ham tiền hơn mạng sống, nổi tiếng là người cung cấp “quân đội đánh thuê”
cho quốc gia khác để “gìn giữ hoà bình”. Ông có mối quan hệ mật thiết với các
hoàng thất ở nhiều quốc gia châu Âu, đặc biệt rất thích làm ăn với hoàng gia Anh
quốc. Nhờ có rất nhiều nguồn lợi hải ngoại nên nước Anh thường xuyên phải dùng
đến quân đội để duy trì và bảo vệ lợi ích của mình, nhưng số lượng binh lính lại
không đủ trong khi lượng tiền mà nước Anh xuất ra lại tương đối nhiều và rất ít
khi khất nợ, cho nên, quốc gia này rất hợp rơ với thái tử William. Sau này, khi
cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ nổ ra, số lượng quân Đức mà Washington
phải đối phó còn nhiều hơn cả số quân của Anh quốc. Về sau, thái tử William đã
tích luỹ được một khoản tài sản lớn nhất trong các hoàng thất châu Âu, ước
khoảng 200 triệu đô-la Mỹ. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “con cá mập cho
vay máu lạnh nhất châu Âu”(17). Sau khi trở thành một thành viên dưới trướng của
thái tử William, Mayer tận tâm tận lực xử lý tốt tất cả mọi việc, vì vậy rất
được William tin tưởng. Không lâu sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ
(1789 - 1799), làn sóng cách mạng dần lan rộng sang các nước theo chế độ quân
chủ lân cận.
Thái tử William bắt đầu nhấp nhổm không yên và lo rằng
cuộc cách mạng đang ngày càng lan dần đến nước Đức, các phần tử phản loạn sẽ
cướp sạch tài sản của ông. Ngược lại với cách nghĩ của thái tử, Mayer lại hết
sức vui mừng với cuộc cách mạng Pháp, bởi vì cuộc khủng hoảng sẽ khiến cho lượng
tiền bạc của ông tăng lên. Khi ngọn lửa cách mạng lan đến thành La Mã cổ kính,
cắt đứt đường trung chuyển thương mại của Anh, giá hàng hoá nhập khẩu đã tăng
vọt. Công việc vận chuyển hàng hoá từ Anh sang Đức đã giúp cho Mayer kiếm được
bộn tiền.
Mayer luôn là nhân vật hết sức tích cực trong khu tập
trung Do Thái. “Mỗi tối thứ sáu hàng tuần, sau khi kết thúc đợt hành lễ ở giáo
đường của người Do Thái, Mayer luôn mời một số học giả Do Thái uyên bác nhất đến
nhà mình tụ họp. Họ cùng nhau nhấm nháp rượu vang và thảo luận công việc một
cách chi tiết tuần tự hoặc làm một số việc mãi cho đến khuya mới
thôi”(18).
Mayer có câu nói nổi tiếng: “Gia đình cầu nguyện cùng
nhau sẽ kết dính lại với nhau”(19) (người Do Thái thường cầu nguyện cùng nhau và
xem đó như là sự biểu hiện của tình đoàn kết - ND). Người đời sau không thể hiểu
được sức mạnh nào có thể khiến cho những người trong dòng họ Rothschild lại
quyết tâm theo đuổi quyền lực đến như vậy.
Đến năm 1800, dòng họ Rothschild đã trở thành một trong
những dòng họ Do Thái giàu có nhất ở đất Frankfurt.
Trong năm này, Mayer còn nhận được danh hiệu “đại diện
hoàng gia đế chế” do quốc vương của xứ La Mã thần thánh trao cho. Danh hiệu này
khiến cho ông có thể đi lại khắp nơi trong đất nước này, được miễn trừ các loại
thuế đánh vào người Do Thái, thậm chí nhân viên công ty của ông còn có thể mang
theo vũ khí.
Năm 1803, mối quan hệ giữa Mayer và thái tử William ngày
càng mật thiết hơn khiến cho thế lực của Mayer mạnh hơn rất nhiều so với trước.
Một người anh họ của thái tử William là quốc vương Đan Mạch ngỏ ý muốn vay của
William một khoản tiền, nhưng sợ người khác biết được sự giàu có của mình nên
thái tử đã không đồng ý. Sau khi biết được việc này, Mayer cho rằng đây là một
cơ hội rất tốt, bèn đưa ra một phương án giải quyết cho thái tử: thái tử cứ xuất
tiền, còn Mayer là người ra mặt thương lượng việc cho vay, lấy danh nghĩa
Rothschild cho quốc vương Đan Mạch vay, và như vậy, Mayer có thể trích phần trăm
lãi suất. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, cảm thấy đây là một phương án vẹn cả đôi
đường, vừa có thể cho vay mà lại không để lộ sự giàu có của mình ra cho thiên hạ
biết, thái tử bèn nói với Mayer rằng, việc cho quốc vương vay tiền quả là chuyện
nằm mơ mà Mayer cũng khó có thể thấy được, và việc này không chỉ được báo đáp về
sau, mà còn là cơ hội tuyệt vời để nâng cao danh dự. Kết quả là công việc này đã
đem lại cho Mayer thành công rất lớn. Liền sau đó, sáu khoản vay của hoàng thất
Đan Mạch được giao dịch thành công thông qua Mayer.
Thanh danh của Rothschild theo đó cũng nổi lên như cồn,
đặc biệt là mối quan hệ mật thiết giữa ông và hoàng gia bất đầu được mọi người
biết đến ở châu Âu.
Sau khi lên ngôi, Napoleon đã từng có ý đồ muốn lôi kéo
William về phía mình, nhưng William lại chần chừ nửa muốn nửa không và không đưa
ra được lựa chọn của mình.
Vì không lôi kéo được William, Napoleon đã không nén được
bực tức và tuyên bố phải quét sạch dòng họ William ra khỏi bản đồ những “nhân
vật có quyền lực thống trị ở châu Âu”, rồi liền đó đưa quân áp sát biên giới.
Thái tử William hốt hoảng trốn sang Đan Mạch lưu vong, và trước khi chạy ra nước
ngoài đã đem khoản hiện kim trị giá 3 triệu đô-la Mỹ giao cho Mayer cất giữ.
Chính khoản hiện kim này đã đem lại cho Mayer quyền lực và sự giàu sang chưa
từng có trong đời. Đó cũng chính là thùng vàng đầu tiên giúp Mayer khai thông
con đường đến đế chế tài chính của ông trong tương lai.
Mayer còn có một ý chí mạnh mẽ hơn nhiều lần so với việc
thành lập Ngân hàng Anh. Khi có được khoản tiền kếch xù từ tay thái tử William,
ông lại bắt đầu có ý muốn điều binh khiển tướng. Năm người con của ông giống như
năm mũi tên sắc bén nhằm vào năm khu vực trung tâm của châu Âu. Người con cả
Amschel trấn giữ toàn vùng Frankfurt, con thứ Salomon được cử đến Vienna khai
phá chiến trường mới, người thứ ba Nathan được phái đến Anh để nắm giữ đại cuộc,
người thứ tư Calmann được cử đến Napoli của Ý để xây dựng căn cứ địa và đóng vai
trò như con thoi truyền đạt thông tin giữa các anh em, và người con út là James
thì nắm giữ nhiệm vụ tác nghiệp ở Paris.
Một đế quốc tài chính chưa từng có trong lịch sử loài
người đã được hình thành.
4. Nathan - chúa tể thành phố tài
chính London
Họ là chúa tể của thị trường tiền tệ thế giới, đương
nhiên cũng chinh là chúa tể của tất cả những gì có trên thế giới này. Trên thực
tế, họ có cả nguồn thu nhập tài chính của vùng đất nam Italy, còn vua và bộ
trưởng của các quốc gia (châu Âu)đều phải lãng nghe họ(20).
Benjamin Disraeli - Thủ tướng Anh, năm
1844
Thành phố tài chính London là một khu đất chỉ chiếm diện
tích 2,6 km2 thuộc trung tâm London. Từ thế kỷ 18, nơi đây đã là trung tâm tài
chính của nước Anh và thậm chí là của toàn thế giới với hệ thống tư pháp độc lập
giống như Vatican, tức là một quốc gia nhỏ trong một đất nước lớn.
Vùng đất nhỏ bé hình viên đạn này tập trung toàn bộ cơ
cấu tài chính chủ yếu của thế giới, tạo ra đến 1/6 GDP của nước Anh lúc bấy giờ.
Kẻ nào nắm được thành phố London này cũng sẽ trở thành chúa tể của nước Anh. Khi
Nathan đến Anh, đúng thời điểm này, cuộc đối đầu giữa Anh và Pháp đang diễn ra
gay gắt. Cả hai nước ban hành lệnh cấm vận lẫn nhau, vì thế hàng hoá của Anh rất
có giá ở châu Âu. Nathan bắt đầu bắt tay với người em của mình đang ở Pháp -
James - để vận chuyển hàng hoá theo kiểu trao tay từ Anh sang Pháp, và công việc
này đã đem lại rất nhiều tiền cho họ. Sau này, Nathan làm quen với John Harris -
một nhân vật quan trọng trong Bộ tài chính Anh, và thông qua người này biết được
quân Anh đang gặp khốn ở Tây Ban Nha.
Lúc đó quân Anh do huân tước Wellington chỉ huy đã chuẩn
bị xong việc tấn công Pháp, nhưng cái thiếu duy nhất lúc bấy giờ là lương
thực.
Huân tước Wellington tuy có sự đảm bảo của chính phủ Anh,
nhưng cho dù có nói khô bọt mép cũng khó thuyết phục được các nhà ngân hàng của
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chấp nhận chứng chỉ ngân hàng do ông đưa ra. Đại quân
của huân tước Wellington đòi hỏi phải có vàng khẩn cấp(21).
Nathan rất nhanh nhạy và quyết tâm phải kiếm một mẻ từ
việc này. Ông đi khắp nơi để hỏi nguồn vàng nhàn rỗi. Cũng may lúc đó có một lô
vàng mới về từ Ấn Độ do công ty Đông Ấn Độ vận chuyển đến và chuẩn bị đem ra
tiêu thu. Đây là lô vàng mà chính phủ Anh muốn đặt mua, chỉ có điều họ còn chần
chừ vì giá quá cao, và muốn chờ giá vàng giảm mới chịu mua vào. Sau khi nắm được
tình hình, Nathan bèn lập tức dồn hết số tiền 3 triệu đô-la của thái tử William
cùng số tiền mình buôn bán hàng hoá kiếm được ở Anh để đặt mua trước một lượng
vàng trị giá 800 nghìn bảng Anh của công ty Đông Ấn Độ(22) và sau đó lập tức
nâng giá vàng lên. Thấy giá vàng chỉ tăng mà không giảm trong khi tình hình quân
đội ở tiền tuyến ngày càng nguy cấp nên chính phủ Anh chỉ còn cách là mua lại
vàng từ tay của Nathan với giá cao hơn. Phi vụ này đã giúp Nathan kiếm được bộn
tiền.
Nhưng kế liên hoàn của Nathan vẫn chưa hết. Ông ta lại đề
xuất phương án hộ tống số vàng này đến cho huân tước Wellington. Khi đó Pháp
đang tiến hành phong toả đường bộ hết sức nghiêm ngặt đối với Anh, cho nên nếu
đi bằng đường này thì rủi ro rất lớn, vì thế chính phủ Anh đã đồng ý trả một
khoản tiền rất lớn để vận chuyển lô vàng này. Sau khi thương thảo xong, Nathan
liền bảo em trai mình là James chỉ mới 19 tuổi thông báo cho chính phủ Pháp biết
ông muốn vận chuyển vàng đến Pháp. Chính phủ Anh có thể sẽ hết sức tức giận đối
với việc này, bởi vì việc vàng chảy sang Pháp sẽ khiến cho khả năng tài chính
của Anh suy yếu đi rất nhiều. Vì có lợi trong việc này nên nhà cầm quyền Pháp
bèn lập tức lệnh cho cảnh sát bảo vệ dọc đường bật đèn xanh cho qua. Cá biệt,
một số viên quan còn được hối lộ với những khoản tiền lớn để che tai bịt mắt vờ
như không thấy.
Vậy là số vàng do nhóm Nathan vận chuyển trên thực tế là
nhằm mục đích nhận được sự giúp sức của chính phủ cả hai nước Anh - Pháp. Vì
vậy, số vàng này đã được nhập một cách chính thức vào ngân hàng Paris. Nathan
một mặt tham dự yến tiệc chào đón của chính phủ nước Pháp, một mặt ngấm ngầm
phái người đem đổi toàn bộ số vàng này thành tiền vàng mà công tước Wellington
đang cần, rồi vận chuyển đến tay quân Anh ở Tây Ban Nha thông qua hệ thống bí
mật của gia tộc Rothschild. Cách xử lý “cao tay ấn“ này của Nathan thật chẳng
khác gì những tình tiết trong phim Hollywood thời hiện đại.
Một nhân vật ngoại giao của Bỉ thường trú ở Anh đã nói
rằng: “Sự ảnh hưởng của Rothschild đối với nền tài chính ở đây (London) lớn đến
mức đáng sợ. Họ hoàn toàn quyết định giá giao dịch ngoại hối của thành phố tài
chính London. Với tư cách là ngân hàng, quyền lực của họ khiến người ta phải trố
mất. Khi Nathan nổi giận thì Ngân hàng Anh cũng phải run rẩy”.
Một lần, Nathan cầm một tờ chi phiếu được mở bởi ngân
hàng Rothschild do anh trai của mình là Amschel gửi đến từ Frankfurt với đề nghị
ngân hàng Anh đổi thành hiện kim.
Nhưng lấy lý do là chỉ đổi chi phiếu do mình phát hành,
ngân hàng này đã từ chối. Nathan tức giận vô cùng. Sáng hôm sau, ông ta đã dẫn
theo chín nhân viên của mình, đem theo một xấp chi phiếu của ngân hàng Anh đến
và yêu cầu đổi ra vàng, chỉ trong một ngày đã khiến lượng dự trữ vàng của ngân
hàng Anh giảm xuống rõ rệt.
Ngày thứ hai, Nathan lại đem đến nhiều chi phiếu hơn. Một
quản lý cao cấp của ngân hàng Anh lập bập hỏi Nathan còn muốn đổi trong mấy ngày
nữa, Nathan lạnh lùng trả lời: “Ngân hàng Anh từ chối nhận chi phiếu của tôi,
tội gì tôi cần đến nó?” Ngân hàng Anh lập tức triệu hồi cuộc họp khẩn cấp, sau
đó quản lý cao cấp của ngân hàng Anh đã phải khách khí báo cho Nathan biết rằng,
từ nay về sau, ngân hàng Anh sẽ rất hân hạnh được quy đổi tất cả những chi phiếu
do Rothschild phát hành.
Trong trận chiến Waterloo, Nathan chỉ cần nhất cử đã đoạt
được quyền kiểm soát thành phố tài chính London, từ đó nắm giữ mạch máu của nền
kinh tế Anh. Và cũng từ đây, các quyết định quan trọng bao gồm quyền phát hành
tiền tệ và giá vàng đều nằm trong tay chi phối của dòng họ Rothschild.
5. James chinh phục
Pháp
Một khi chính phủ lại vào nguồn tiền vàng của một ngân
hàng, các ngân hàng sẽ đóng vai trò nắm giữ cục diện của chính phủ, bởi vì kẻ
trao tiền bao giờ cũng có thế hơn kẻ nhận tiền. Tiền bạc không có tổ quốc, các
nhà hoạt động trong lĩnh vực tài chính không biết thế nào là yêu nước và sự cao
thượng, mục đích duy nhất của họ đó là làm sao để nhanh chóng có được tiền
lời(23).
Napoleon - năm 1815
Trong thời kỳ Napoleon chấp chính, James - người con thứ
năm của Rothschild - đi lại như con thoi giữa London và Paris, xây dựng hệ thống
mạng lưới vận chuyển hàng hoá của Anh. Sau khi giúp Wellington vận chuyển tiền
vàng thành công và cuộc chiến thu mua trái phiếu chính phủ Anh quốc kết thúc,
James trở nên nổi tiếng ở Pháp. Ông đã xây dựng được ngân hàng Paris Rothschild,
đồng thời âm thầm giúp đỡ cuộc cách mạng ở Tây Ban Nha.
Năm 1817, sau chiến bại ở trận Waterloo, nước Pháp đã mất
đi một lượng lớn lãnh thổ có được từ chiến tranh của Napoleon, đồng thời rơi vào
cảnh bị bao vây chính trị, nền kinh tế quốc dân cũng ngày càng tiêu điều. Chính
phủ của Louis 18 chạy vạy khắp nơi để vay tiền, hy vọng nền tài chính quốc gia
có thể từng bước ổn định. Việc một ngân hàng của Pháp và Ngân hàng Barings của
Anh nhận được những khoản xin vay khổng lồ trong khi Ngân hàng Rothschild với
tiếng tăm lừng lẫy như vậy lại rơi vào thinh lặng đã khiến James cảm thấy rất
sốt ruột.
Đến năm 1818, những công trái chính phủ phát hành một năm
trước ở Paris và nhiều khu vực khác đều bắt đầu tăng giá. Chính phủ Pháp đã nếm
được vị ngọt của lợi nhuận nên muốn vay tiếp của hai ngân hàng kia. Và cho dù có
thử đủ mọi cách đi nữa thì anh em nhà Rothschild cũng chẳng kiếm được một chút
lợi ích nào. Thì ra, tầng lớp quý tộc Pháp tự cho mình là những người có dòng
máu cao quý, còn Rothschild chỉ là kẻ tầm thường nên không muốn làm ăn với
Rothschild. Mặc dù giàu nứt đố đổ vách, hào hoa rất mực, nhưng James không phải
là người có địa vị xã hội cao. Sự kiêu ngạo của đám quý tộc Pháp đã khiến James
hết sức phẫn nộ.
Ông bèn bắt tay cùng các anh em của mình lập kế hoạch
khống chế quý tộc Pháp. Còn đám quý tộc cao ngạo nhưng dốt nát của Pháp lại đánh
giá thấp chiến lược chiến thuật nổi bật trong lĩnh vực tài chính của dòng họ
Rothschild. Khả năng hoạch định chiến lược cũng như bản lĩnh kinh doanh của họ
vốn được ví với tài chỉ huy trên chiến trường của Napoleon.
Ngày 15 tháng 11 năm 1818, công trái của Pháp trước đó
vẫn đang tăng giá ổn định thì đùng một cái lại có những biến động thất thường.
Rất nhanh sau đó, những công trái khác của chính phủ cũng bắt đầu chịu ảnh
hưởng, giá cả lần lượt trượt dốc với những mức độ khác nhau. Các nhà đầu tư trên
thị trường bắt đầu bàn tán xôn xao. Cùng với thời gian, tình hình chẳng những
không có chuyển biến tốt mà trái lại ngày càng có chiều hướng tệ hại(24). Sự bàn
tán ở sở giao dịch ngày càng lan rộng đi khắp nơi, có người nói có thể Napoleon
sẽ lên nắm quyền lại, cũng có người nói việc thu thuế tài chính của chính phủ
không đủ để chi trả lợi tức cho các cổ đông, có người còn lo rằng sẽ xảy ra cuộc
chiến mới.
Nội bộ hoàng cung của vua Louis 18 cũng hết sức căng
thẳng. Nếu công trái vẫn tụt dốc với biên độ không phanh như vậy thì chính phủ
sau này sẽ chẳng biết bấu víu vào đâu. Trên gương mặt của các nhà quý tộc cao
ngạo lộ ra vẻ chán nản, ai ai cũng đều lo lắng cho tương lai của đất nước này.
Chỉ có hai người đứng ngoài cuộc với vẻ mặt bàng quan lạnh lùng. Đó là James và
Calmann.
Do rút ra bài học từ vết xe đổ của nước Anh, một số người
đã bắt đầu nghi ngờ rằng gia tộc Rothschild đang thao túng thị trường công trái
này. Tình hình thực tế chính là vậy. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1818, dòng họ
Rothschild đã dùng tài lực hùng hậu của mình làm hậu thuẫn, ngấm ngầm mua vào
các công trái Pháp trên tất cả các thị trường lớn ở châu Âu khiến cho công trái
của nước này bắt đầu tăng giá. Sau đó bắt đầu từ ngày 5 tháng 11, họ lại đồng
loạt bán các trái phiếu này với số lượng lớn ra tất cả các thị trường châu Âu,
gây nên sự hoang mang cực độ cho thị trường.
Khi chứng kiến cảnh giá trị công trái của mình rơi tự do
xuống đáy như vậy, vua Louis 18 cũng cảm thấy ngôi vị của mình đang lung lay dữ
dội. Lúc này, người đại diện của dòng họ Rothschild đã nói với vua Louis 18
rằng, tại sao ông không thử nhờ Ngân hàng Rothschild cứu vãn tình thế.
Trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, Louis đã quên cả địa
vị cao sang của mình, đòi cho triệu anh em nhà James đến ngay lập tức. Bầu không
khí của điện Elysee nhờ đó mà thay đổi ngay tức khắc, anh em James bị đối xử
khinh rẻ trước đây giờ đi đến đâu cũng được tung hô chào đón. Và quả nhiên, chỉ
với một cái búng tay của anh em James, thị trường trái phiếu đã bình ổn trở lại,
còn họ thì trở thành trung tâm chú ý của nước Pháp. Sau chiến bại về quân sự của
Pháp, họ đã cứu được nước Pháp từ cuộc khủng hoảng kinh tế? Những lời ca tụng và
những tràng hoa tươi khiến anh em James sung sướng ngất ngây, ngay cả quần áo họ
mặc cũng trở thành mốt thời thượng khi đó. Ngân hàng của họ trở thành nơi người
ta vào ra giao dịch tấp nập.
Nhờ vậy, dòng họ Rothschild đã khống chế được hoàn toàn
nền tài chính Pháp.
“Tài sản của James Rothschild đã đạt đến 600 triệu
francs. Ở Pháp chỉ có tài sản của một người có thể sánh với ông ta, đó chính là
quốc vương Pháp với khối tài sản trị giá 800 triệu francs. Tài sản của các ngân
hàng khác tại Pháp cộng lại vẫn thấp hơn 150 triệu francs so với khối tài sản
của James. Và nguồn tài sản này bỗng nhiên đem lại cho ông quyền lực cao siêu
không thể tả được, thậm chí đến mức bất cứ lúc nào cũng có thể khiến cho nội các
chính phủ tan vỡ”(25).
6. Salomon thăm
Áo
Trong mắt họ (gia tộc Rothschild) không có chiến tranh
và hoà bình, không có khẩu hiệu và tuyên ngôn, cũng không có chết chóc và danh
dự, họ xem thường những thứ mê hoặc đôi mắt của người đời này. Trong mắt họ chỉ
có bàn đạp. Thám tử William là một còn người thứ hai chính là
Metternich(26).
Fryderyk Merton.
Salomon là con trai thứ hai của Mayer. Hàng năm, ông đi
lại như con thoi giữa các thành phố lớn của châu Âu, đảm nhận vai trò điều phối
giữa các ngân hàng của dòng họ. Ông là người có tài ngoại giao vượt trội trong
số các anh em, nói năng cẩn trọng, rất khéo léo trong việc lấy lòng người khác.
Một nhân vật làm ăn trong lĩnh vực ngân hàng từng giao tiếp với Salomon đã nhận
xét về ông rằng “Không ai không hài lòng khi chia tay ông ấy”. Chính bởi nguyên
nhân này mà các anh em trong nhà đã cùng cử ông đến Vienna khai trương nghiệp vụ
ngân hàng của vùng trung tâm châu Âu.
Lúc này, Vienna vẫn là trung tâm chính trị của châu Âu,
hầu như các hoàng gia của các nước châu Âu đều có mối quan hệ dây mơ rễ má với
vương triều Habsburg. Habsburg được xem là vương thất của đế quốc La Mã thần
thánh (giải thể năm 1806), thống trị một vùng rộng lớn bao gồm Áo, Đức, bắc Ý,
Thuỵ Sĩ, Biliti, Hà Lan, Luxembourg, Tiệp Khắc, Solvenia và cả miền đông nước
Pháp trong suốt hơn 400 năm, là dòng máu vương thất chính tông và cổ nhất châu
Âu.
Tuy đế quốc La Mã thần thánh đã bị đánh bại trong cuộc
chiến Napoleon, nhưng người kế thừa của vương triều Áo lại tỏ ra kiêu ngạo với
vai trò vương triều chính thống của mình. Thêm vào đó là giáo lý Thiên Chúa giáo
chính thống của vương triều này không kém phần cứng rắn so với giáo lý mới đang
thịnh hành ở các quốc gia như Anh, Pháp.
Việc giao lưu với một gia tộc cao quý như vậy so ra còn
cao hơn một cấp so với mối quan hệ với Thái tử William. Tuy đã nhiều lần có ý
muốn thiết lập quan hệ kinh doanh với Habsburg, nhưng dòng họ Rothschild luôn
nhận được sự cự tuyệt của vương triều này và chẳng thể nào bước vào bậc cửa của
đế chế đó.
Ngay sau khi chiến tranh Napoleon kết thúc, Salomon đến
gõ cửa đại thành Vienna. Tuy nhiên, tình thế lúc này đã hoàn toàn đổi khác. Dòng
họ Rothschild khi đó đã trở thành một dòng họ danh gia vọng tộc ở châu Âu, với
nhuệ khí dũng mãnh đã chinh phục được cả hai nền tài chính Anh và
Pháp.
Dù vậy song Salomon cũng không dám trực tiếp bàn chuyện
làm ăn với người của Habsburg mà muốn tìm được một bàn đạp. Và bàn đạp này chính
là Klemens von Metternich ngoại trưởng Áo, nhân vật nổi tiếng trên chính trường
châu Âu thế kỷ 19.
Sau chiến bại của Napoleon, thành phố Vienna do
Metternich xây dựng nên đã duy trì thời kỳ hoà bình dài nhất ở châu Âu thế kỷ
19. Trong tình thế nước Áo ngày càng suy vi còn kẻ thù mạnh đang bao vây tứ
phía, Metternich đã phát huy sự tinh tuý của chế độ đến mức cao nhất. Ông đã lợi
dụng sức mạnh hiệu triệu chính thống của hoàng gia Habsburg còn lại ở châu Âu để
lôi kéo và xây dựng mối quan hệ đồng minh bền chặt với các nước láng giềng là
Phổ và Nga, vừa ngăn chặn được sự khôi phục của Pháp, lại kiểm soát được sự bành
trướng của Nga, đồng thời còn hình thành nên một cơ chế kiểm soát liên hoàn đối
với làn sóng chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do trong nước, đảm bảo không mất
kiểm soát thế lực của các phần tử đa dân tộc trong nước.
Hội nghị Aix-la-Chapelle năm 1818 là một hội nghị quan
trọng quyết định đến tương lai của châu Âu sau cuộc chiến tranh với Napoleon.
Các đại biểu đến từ các nước như Anh, Nga, Áo, Phổ, Pháp đã quyết định khoản bồi
thường chiến tranh của Pháp và vấn đề rút quân của các nước đồng minh. Cả
Salomon và Calmann đều tham gia hội nghị này.
Chính tại hội nghị này, Salomon đã làm quen được với
Metternich thông qua Gentz - một thủ hạ của Metternich, và rất nhanh chóng trở
thành bạn tâm giao. Một mặt, sự tán dương thấu tình đạt lý của Salomon đã khiến
Metternich mát lòng mát dạ, mặt khác, Metternich cũng muốn dựa vào thế lực tài
chính hùng hậu của gia tộc Rothschild. Hai người tỏ ra rất hiểu nhau. Mối quan
hệ giữa Salomon và Gentz cũng ngày càng khăng khít hơn.
Dựa vào Metternich và sự tiến cử của Gentz, thêm vào đó
là mối quan hệ làm ăn mật thiết giữa Rothschild với thái tử William và hoàng
thất Đan Mạch, bức tường cao ngất của Habsburg cuối cùng cũng bị Salomon vượt
qua. Các khoản vay và đầu tư của hoàng thất cho ngân hàng của Salomon ngày càng
ổn định và tăng lên, chẳng mấy chốc Salomon đã trở thành “tay trong” của hoàng
thất. Năm 1822, hoàng gia Habsburg đã phong hiệu Nam tước cho bốn anh em nhà
Rothschild (trừ Nathan).
Được sự giúp sức về tài chính của Salomon, Metternich bắt
đầu mở rộng sức ảnh hưởng của Áo, đưa quân đi khắp nơi đến các điểm nóng để “bảo
vệ hoà bình”, vì vậy tiềm lực vốn ngày càng suy kiệt của nước Áo lại bị các cuộc
điều quân này làm cho thảm hại thêm, và lẽ dĩ nhiên là ngày càng rơi vào vòng
xoáy tài chính của dòng họ Rothschild. Khoảng thời gian từ năm 1814 đến năm 1848
ở châu Âu được gọi là thời đại của “Metternich”, còn trên thực tế, người khống
chế Metternich lại chính là ngân hàng Rothschild đứng sau lưng.
Năm 1822, Metternich, Gentz, Salomon, James và Calmann đã
tham dự hội nghị Verona quan trọng. Sau hội nghị này, ngân hàng Rothschild nhận
được một khoản đầu tư với lợi nhuận. rất lớn là công trình đường sắt Trung
Âu.
Lúc này, người Áo đã ngày càng ý thức được sức ảnh hưởng
của Rothschild, và họ bắt đầu nói đùa với nhau rằng “Nước Áo có một hoàng đế
Ferdinand và một quốc vương Salomon”.
Năm 1843, Salomon đã mua Công ty liên hiệp khoáng sản
Vitkovice và Công ty luyện kim Magyar - hai công ty nằm trong nhóm 10 công ty
công nghiệp nặng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ.
Năm 1848, Salomon đã trở thành ông trùm kinh tế và tài
chính của Áo.
7. Ảnh hưởng của Rothschild đối với
Đức và Ý
Kể từ khi người Đức rút quân sau chiến dịch Napoleon,
Liên bang Đức đã được hình thành từ hơn 30 quốc gia phong kiến phân tán trong
quá khứ. Amschel nắm giữ vùng Frankfurt và được bầu làm Bộ trưởng tài chính đầu
tiên của nước Đức liên bang, năm 1822 được hoàng đế của Áo phong làm Nam tước.
Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt trở thành trung tâm tài chính của nước Đức.
Nhưng vì không có con nối dõi, nên Amschel luôn nhiệt tình giúp đỡ các bậc anh
tài mới xuất hiện. Trong số những nhân tài này có một chàng thanh niên mà ông
đặc biệt mến mộ - đó chính là Ottovon Bismarck, vị tể tướng có ý chí kiên cường
và giàu lòng hy sinh của nước Đức và là một nhân vật nổi tiếng thế giới trong
lịch sử hiện đại sau này.
Tình cảm giữa Amschel và Bismarck có cái gì đó giống như
tình cha con. Và sau khi Amschel qua đời, Bismarck vẫn duy trì mối quan hệ mật
thiết với dòng họ Rothschild. Nhà ngân hàng Samuel Bleichroder đứng sau lưng
Bismarck cũng là người đại diện của dòng họ Rothschild(27).
Calmann là người bình dị nhất trong số năm anh em nhà
Rothschild, đảm nhận vai trò người đưa tin chủ yếu trong dòng họ, chuyển tin tức
đến các vùng của châu Âu và hiệp đồng với các anh em khác. Sau khi giúp. người
em thứ năm giành được thắng lợi vang dội trong chiến dịch công trái năm 1818 của
Pháp, ông liền được Nathan cử đến Napoli của Ý để xây dựng ngân hàng. Chính ở
đây ông đã thể hiện khả năng vượt trội đến khó tưởng tượng so với những người
anh em của mình. Calmann không những giúp sức cho Klemens Wenzel von Metternich
phái quân đội đến Ý đàn áp cách mạng mà còn dùng những mánh khóe chính trị xuất
sắc buộc chính phủ địa phương của nước này phải thừa nhận đã sử dụng chi phí của
quân đội. Ông còn giúp cho Medici lập kế hoạch và thu hồi lại chức vị Bộ trưởng
tài chính của Napoli. Calmann dần dần trở thành trụ cột tài chính trong hoàng
cung của nước ý, sức ảnh hưởng của ông lan toả khắp bán đảo nước này. Ông thiết
lập mối quan hệ giao thương qua lại với với Vatican. Khi gặp ông, giáo hoàng
Gregory 16 đã phá lệ giao tiếp của Toà thánh bằng cách đưa tay ra cho phép
Calmann hôn lên, thay vì đưa chân ra cho hôn như lẽ thường.
8. Đế chế tài chính của
Rothschild
Chỉ cần anh em các ngài tụ họp lại cùng nhau thì trên
đời chẳng có một ngân hàng nào có thể cạnh tranh, làm tổn thương hoặc kiếm lợi ở
các ngài. Một khi các ngài hợp sức với nhau thì uy lực của các ngài sẽ lớn hơn
bất cứ ngân hàng nào trên thế giới này(28).
Lời của Davison nói với Nathan, ngày 24 tháng 6 năm
1814.
Trước khi qua đời vào năm 1812, Rothschild cha đã để lại
di chúc cho năm người con:
1. Những chức vụ quan trọng trong các ngân hàng của dòng
họ phải do các thành viên trong dòng họ nắm giữ, tuyệt đối không để người ngoài
nắm những cương vị này. Chỉ cần là đàn ông trong dòng họ thì đều có thể tham gia
vào hoạt động thương mại của dòng họ.
2. Việc kết hôn chỉ có thể được tiến hành giữa những
người họ hàng với nhau trong dòng họ, để tránh tình trạng thất thoát tài sản ra
ngoài. (Quy định này trước đây được thực hiện nghiêm túc, về sau đã được nới
rộng với việc cho phép các thành viên trong gia tộc được kết hôn với các dòng họ
khác gốc Do Thái trong lĩnh vực ngân hàng).
3. Tuyệt đối không cho phép công bố tình hình tài sản ra
bên ngoài.
4. Trưởng nam trong mỗi gia đình được xem là các thủ
lĩnh, trừ khi được dòng họ đồng ý mới có thể chọn con thứ để tiếp quản. Bất cứ
ai vi phạm di chúc này, sẽ mất đi toàn bộ quyền thừa kế tài sản(29).
Tục ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng
cạn”, Rothschild đã thông qua hình thức kết hôn trong nội bộ dòng họ để triệt để
đề phòng khả năng của cải thất thoát ra ngoài.
Trong hơn 100 năm, việc kết hôn theo hình thức này đã
diễn ra 18 lần, trong đó có 16 lần là giữa những người con cả vốn là các anh chị
em họ với nhau.
Theo tính toán, khoảng năm 1850, dòng họ Rothschild đã
tích luỹ tổng số tài sản lên đến 6 tỉ đô-la, và nếu tính tỉ lệ lãi suất 6% thì
đến ngày nay, sau hơn 150 năm, tài sản của dòng họ này ít nhất cũng đã trên
50.000 tỉ đô-la.
Một quy chế gia tộc hà khắc, hoạt động hoàn toàn kín kẽ,
sự phối hợp nhịp nhàng chính xác như một chiếc đồng hồ, nguồn thông tin sớm hơn
thị trường, lý trí lạnh lùng sáng suất, tham vọng quyền lực và tiền tài vô hạn,
sự hiểu biết thấu đáo về tiền bạc và của cải cũng như khả năng dự đoán thiên tài
đã giúp cho dòng họ Rothschild xây dựng nên một đế chế tài chính lớn nhất trong
lịch sử loài người, ngay cả khi đế chế này rơi vào vòng xoáy tàn bạo của tài
chính, chiến tranh và chính trị.
Đến đầu thế kỷ 20, tổng số của cải mà dòng họ Rothschild
khống chế đã bằng một nửa tổng của cải thế giới lúc bấy giờ(30).
Số lượng các ngân hàng của dòng họ Rothschild đã phủ khắp
các thành phố quan trọng của châu Âu. Dòng họ này có một hệ thống thu thập thông
tin tình báo và truyền tin nhanh chóng của riêng mình, thậm chí quý tộc và hoàng
gia của các nước châu Âu khi muốn truyền những tin khẩn và bí mật đều phải thông
qua hệ thống của họ. Họ còn là những người đầu tiên sáng lập nên hệ thống thanh
toán tài chính quốc tế, lợi dụng sự khống chế của họ đối với thị trường vàng thế
giới để xây dựng một hệ thống thanh toán sổ sách vận chuyển vàng mà không cần
dùng đến hiện vật trong hệ thống ngân hàng của dòng họ.
Trên thế giới này, không ai có thể lý giải sâu sắc hơn ý
nghĩa đích thực của vàng bằng dòng họ Rothschild. Vào năm 2004, khi tuyên bố rút
lui khỏi hệ thống định giá vàng London, dòng họ Rothschild đang ngầm rời bỏ
trung tâm bão táp tài chính chưa từng có của thế giới tương lai để định lại mối
quan hệ giữa họ với giá trị của vàng. Nền kinh tế đô-la Mỹ chồng chất nợ nần và
hệ thống tiền tệ pháp định của thế giới bốn phía rủi ro rình rập, cũng như hệ
thống ngoại hối thế giới rất có thể sẽ đối mặt với một đợt thanh toán, chỉ có
của cải nhiều năm tích luỹ của các quốc gia Đông Nam A có dự trữ vàng không đáng
kể sẽ bị “phân phối lại cho những người thắng cuộc trong tương lai”. Quỹ đối
xung sẽ phát động công kích một lần nữa, chỉ có điều, lần này đối tượng sẽ không
phải là đồng bảng Anh hay tiền tệ của châu á, mà là trụ cột của nền kinh tế thế
giới - đồng đô-la.
Đối với các ngân hàng, chiến tranh là một thông tin vô
cùng tốt lành. Bởi các sản phẩm hay các thiết bị đắt tiền phải khấu hao dần dần
trong thời bình sẽ tan thành mây khói trong tức khắc, các bên tham chiến sẽ
không tiếc bất cứ giá nào để đạt được thắng lợi cuối cùng, đến khi chiến tranh
kết thúc, chính phủ dù là của bên thắng hay thua đều bị lún sâu vào vòng nợ nần
của các ngân hàng. Trong khoảng thời gian 121 năm kể từ khi ngân hàng Anh thành
lập cho đến khi chiến tranh Napoleon kết thúc (1694 - 1815), nước Anh đã có 56
năm sống trong cảnh chiến tranh, một nửa thời gian còn lại được tiêu tốn cho
việc chuẩn bị cuộc chiến kế tiếp sau đó.
Việc giật dây gây chiến và tài trợ cho chiến tranh phù
hợp với lợi ích căn bản của ngân hàng, và ngân hàng của dòng họ Rothschild cũng
không phải là ngoại lệ. Từ cuộc đại cách mạng Pháp (1789) đến chiến tranh thế
giới lần thứ hai, hầu như đằng sau cuộc chiến tranh cận đại nào cũng đều thấp
thoáng bóng dáng của họ. Dòng họ Rothschild hiện là chủ nợ lớn nhất của các quốc
gia phát triển ở phương Tây.
Trước khi qua đời, phu nhân Gutle Schnaper của Rothschild
cha còn nói rằng: “Nếu các con trai của ta không thích có chiến tranh, thì sẽ
chẳng có ai còn nhiệt tình với chiến tranh nữa”.
Đến giữa thế kỷ 19, quyền phát hành tiền tệ của các quốc
gia công nghiệp chủ yếu ở châu Âu như Anh, Pháp, Đức Áo, Ý đều lọt vào tầm khống
chế của Rothschild, “Quân quyền thần thánh đã bị kim quyền thần thánh thay thế”.
Lúc bấy giờ, sự phồn vinh thịnh đạt của đại lục địa châu Mỹ nằm bên kia bờ Đại
Tây Dương đã lọt vào tầm ngắm của gia tộc này.
CHÚ THÍCH
(1) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll (The
Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002,
tr.218.
(2) Morton (1962) chú thích rằng, tài sản của gia tộc
Rothschild được ước tính vào khoảng trên 6 ở đô-la Mỹ vào năm 1850. Con số này
có thể không có ý nghĩa gì trong thời đại bảy giờ, tuy nhiên, hãy thử nghĩ một
chút về giá trị của sản nghiệp đó sau 156 năm (tính đến năm 2006).
Nhưng, nếu thử tính 6 tỉ đô-la này trong mối quan hệ với
tỉ suất ROI - tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư - và thường dao động từ 4% đến
8%) thì chúng ta có thể thấy được rằng, khối tài sản của gia tộc Rothschild lớn
thế nào:
7 tỉ tỉ đô-la Mỹ (4%)
12.1 tỉ tỉ đô-la Mỹ (5%)
53.2 tỉ tỉ đô-la Mỹ (6%)
230.2 tỉ tỉ đô-la Mỹ (7%)
982.3 tỉ ti đô-la Mỹ (8%)
(3) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(4) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, tr. 94.
(5) Eustace Mullins, The Secrets of the Federal Reserve -
The London Connection (Bankers Research Institute, 1985), Chương 5.
(6) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(7) Ignatius Balla, Chuyện tình của gia tộc Rothschilds
(The Romance of the Rothschilds) - Everleigh Nash, London, 1913
Tờ New York Times, số 1/4/1915 đăng một báo cáo rằng, năm
1914, Baron Nathan Mayer de Rothschild yêu cầu toà án đình bản cuốn sách của
Igatius Balla vì những gì mà tác giả viết về thân phụ ông trong cuốn sách này
đều không đúng và bôi nhọ danh dự của gia đình ông. Toà án ra phán quyết rằng,
cảu chuyện trong cuốn sách là đúng sự thật và bác đơn của Baron Nathan Mayer de
Rothschild đồng thời ra lệnh cho ông ta phải chi trả toàn bộ chi phí toà
án.
(8) Eustace Mullins. Bí mật của Cục Dự trữ liên bang (The
Secrets of the Federal Reserve) - Bankers Research Institute, 1985, Chương
5.
(9) Anh em nhà Rothschild trong bức thư gửi vào năm 1863
đến các ông chủ ngân hàng New York để hỗ trợ cho Đạo luật Ngân hăng quốc
gia.
(10) Glyn Davis. Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay
(History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales
Press 2002, tr.257, 258.
(11) Eustace Mullins, Bí mật của Cục Dự trữ liên bang
((The Secrets of the Federal Reserve) - Bankers Research Institute, 1985, Chương
5.
(12) Xem sách đã dẫn.
(13) Glyn Davis. Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay
(History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales
Press 2002, tr. 239.
(14) Cục Thống kê quốc gia Anh
(http://www.statistics.uk/CCI/ nugget.asp?ID=277).
(15) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(16) Xem sách đã dẫn.
(17) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books 1961), tr. 40.
(18) Xem sách đã dẫn, tr. 31.
(19) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(20) Benjamin Disraeli, Coningsby (New York: Alfred A.
Knopf, xuất bản tại Anh năm 1844), tr. 224.
(21) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll (The
Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002, tr.
224.
(22) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books 1961), tr. 45.
(23) R. Mcnair Wilson, Quân chủ hay Quyền lực tiền tệ
(Monarchy or Money Power) - London: Eyre and Spottiswoode, Ltd., 1933, tr.
68.
(24) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(25) David Druck, Baron Edmond de Rothschitd (Privately
printcd), N.Y. 1850.
(26) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books, 1961.
(27) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(28) Lord Rothschild, The Shadow of a Great Man. London:
1982, tr. 6.
(29) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery)
- Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(30) Ted Flynn, Hy vọng của kẻ xấu xa (Hope of the
Wicked) - Maxkol Communication, lnc, 2.000, tr. 38.
Sưu tầm bởi
tuyentapsachhay.blogspot.com
|
Chương 1 Chương 7 |
Chương 2 Chương 8 |
Chương 3 Chương 9 |
Chương 4 Chương 10 |
Chương 5 Phụ lục |
Chương 6 |
EmoticonEmoticon